Lối trăng

16:56 03/09/2008
ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

Ở tận cùng mỏm đất, nơi sóng vỗ vào bờ cát bỏng rát là một thị trấn tồi tàn với những toà nhà xấu xí và vài con đường hẹp. Một trong những con đường đó có một cái lò rèn.
Nick làm việc trong đó. Suốt ngày nó đeo chiếc tạp dề cứng ngắc dầy cộm đứng trước lò nóng hừng hực thổi lửa cho chủ. Ban đêm lại nằm trên nền đất bẩn thỉu cạnh lò, chân bị xiềng chặt. Cha mẹ nó đã bán nó cho chủ lò rèn được bảy năm rồi. Lúc đầu Nick khóc nhiều lắm, nhất là khi đêm xuống. Nó nhớ cha mẹ nhưng căm ghét họ. Ghét họ đã bỏ nó bơ vơ. Nó thề rằng không bao giờ thèm nhìn mặt họ nữa.
Thỉnh thoảng chủ Nick lại chất những thứ làm được lên xe kéo và bảo nó kéo đi giao cho những nơi đã đặt hàng. Những lúc như vậy Nick thường nhìn chăm chăm vào tất cả những khuôn mặt đi ngang qua, hy vọng sẽ có người nào đó sẽ nở một nụ cười hay gật đầu với nó, dù chỉ là một cái gật đầu thật nhẹ. Đôi lúc nó khao khát một lời hỏi thăm của ai đó tốt bụng qua đường dành cho. Nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ và chưa có ai cả. Đúng là một thị trấn xấu xa, khốn khổ với toàn những kẻ thật xấu xa và tầm thường.
Một buổi chiều khi đang gồng người ra sức kéo xe ngang thị trấn, thằng bé nhìn thấy một đám đông đang xúm xít trên bãi đất trống. Tiếng la hét cười nói ồn ào. Nick đặt càng xe xuống, len vào ngó. Thân hình nó nhỏ thó, ốm nhom nên dễ
dàng len lỏi lên phía trước. Giữa đám đông đứng quây tròn, giữa bụi đất mù mịt là một con gấu nhỏ đang đứng hai chân. Quanh cổ quấn một vòng xích sắt nặng trịch. Một người đàn ông, chắc là chủ nó một tay giữ chặt sợi xích, tay kia cầm một chiếc gậy nhọn. Đúng lúc Nick chen vào người đàn ông thọc mạnh đầu gậy vào con gấu, hét "Xuống, Bruin!". Hai chân con gấu khuỵu xuống, sau đó lăn tròn trên đám bụi nằm im giả chết. Đám đông bật cười. Ai đó thảy một đồng xu vào chiếc nón để ngửa gần đấy. "Đứng lên, Bruin!" Ông ta lại hét, xoắn mạnh sợi xích. Con gấu tội nghiệp chậm chạp lồm cồm ngồi lên. Nick nhìn con vật nhỏ, nó hiểu con gấu đang cảm thấy khổ sở thế nào trong bộ lông dày cộm, dưới thời tiết oi nồng, bức bối như ngày hôm nay.
Người đàn ông lại thọc mạnh đầu nhọn vào sườn con vật tội nghiệp, "Nhảy, Bruin!"
Con gấu đưa hai chân trước lên, bắt đầu khật khừ nhảy bên này rồi nhảy bên kia, cái đầu lắc lư một cách nặng nề. "Nhanh nữa!" Chủ nó rít qua kẽ răng, thọc thẳng gậy vào bên sườn con vật. Mọi người lại cười. Bruin ráng sức di chuyển nhanh hơn một chút. Một đám ruồi nhặng bay vo ve trên đầu và bu đầy xung quanh mắt nó.
Người đàn ông bỏ gậy xuống, chụm miệng lại, vừa gật gù vừa huýt lên một điệu nhạc rin rít, vài đồng xu nữa rơi vào nón. Bruin nhúc nhích tấm thân mệt mỏi theo tiếng huýt. Vài phút sau ông ta ngưng lại, con gấu thả phịch đôi chân trước xuống. Vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt vang lên. Người đàn ông lại nhăn nhở cười và cúi chào.
Nick buồn bã quay đi, con gấu tội nghiệp ngẩng đầu nhìn nó. Thằng bé dừng lại quay đầu nhìn vào đôi mắt đáng thương của con vật nhỏ. Trong khoảnh khắc, cổ họng Nick nghẹn tắc, mắt nó cay xè, một nỗi buồn dâng lên bóp nghẹt lấy trái tim bé bỏng. Nick mím chặt môi quay người chui ra khỏi đám đông. Thằng bé cảm thấy đôi mắt con vật buồn bã nhìn theo như đang cầu khẩn van xin. Nick nhấc càng xe lên đi tiếp, không dám ngoái đầu nhìn lại.
Đêm đó, nằm trên nền đất bẩn, chân bị xích, Nick nghĩ về Bruin. Hình ảnh đôi mắt toét nhèm với đám ruồi nhặng bu đầy xung quanh, cái lưỡi khô còng lè ra của Bruin cứ ám ảnh nó. Rồi đột nhiên nó thì thầm một mình trong bóng đêm: "Ngày nào đó, Bruin ơi, tao với mày sẽ vượt biển tới một nơi nào đó trong mát như mặt trăng ấy. Ở nơi đó sẽ không có bọn ruồi, chẳng có xích xiềng... " Thằng bé hơi nhích người, sợi xích dưới chân nó kêu lên loảng xoảng. Thở dài, nó nhắm mắt lại 'Một ngày nào đó, nhất định thế... " Nó lại thầm thì và lại ngủ thiếp đi trong khi mặt trăng mát dịu đang lướt thật nhẹ trên bầu trời
Sáng hôm sau, lão chủ ra lệnh: "Cầm cái mỏ neo này tới chỗ thằng đánh cá Caspar. Tìm nó trên bãi cát ấy, nó đang vá lưới ở đấy."
Vừa bước ra khỏi cửa, mặt trời như nện cây búa lửa to tướng vào nó. "Một nơi ghê tởm" Nick rủa thầm. " Rồi có ngày mình bị cháy đen xì như cái mỏ neo này mất thôi."
Trên bãi cát, Caspar đang ngồi vá lưới. Trông thấy Nick anh ta ngước lên, nheo hết mắt vì nắng. "À, xong rồi hả, đưa đây."
Nick đưa mỏ neo cho Caspar, cát dưới chân bỏng rãy làm nó cứ phải nhảy loi choi.
Người đánh cá cầm mỏ neo lật qua lật lại kiểm tra rồi nói: " Về bảo chủ mày là được rồi, mai tao trả tiền cho."
Nick gật đầu quay đi, vừa lúc đó nghe tiếng Caspar: "Anh nhìn thấy mày hôm qua nhóc ạ, lúc xem xiếc gấu."
Nick quay lại. Đôi mắt xanh nhạt nhìn người đánh cá như có ánh lấp lánh. Thằng bé gật đầu "Vâng, hai đứa đều là nô lệ, con gấu và em."
Chợt nó hối hận vì câu buột miệng vừa rồi. Lỡ người đàn ông này đem nói lại với chủ thì sao? Nó sợ hãi nhìn Caspar. Anh ta nháy mắt. "Đừng sợ!" Caspar nói bằng một giọng nhẹ nhàng. "Anh không phải làm nô lệ như mày, nhưng nếu bị thế thì anh tìm đến lối trăng từ lâu rồi."
Nick không hiểu: "Lối trăng?" Nó thì thầm. Caspar gật đầu.
"Lối trăng là gì? " Nick hỏi và nghĩ chắc anh ta chế nhạo mình.
"Đó là con đường đi tới tự do, một vệt sáng bạc nằm trên biển."
Nick quay đầu nhìn ra mặt nước màu nâu ấm đang mệt mỏi dập dềnh dưới ánh nắng mặt trời. Môi thằng bé dẩu lên: "Em đâu có thấy vệt bạc nào đâu?"
Caspar gục gặc đầu cười lớn: " Bây giờ làm sao thấy được!" Gương mặt Caspar trở nên mơ màng. Anh lấy tay vỗ nhẹ xuống cát ra hiệu cho Nick ngồi xuống. "Lại đây nhóc, tớ sẽ nói cho mà nghe."
Nick nhìn Caspar nửa sợ hãi rồi rụt rè ngồi xuống. Caspar vòng hai tay bó gối, mắt nhìn xa xăm ra biển.
"Biển rộng thật" Anh ta nói, "Biển là thứ rộng nhất trên trái đất này và cũng hung dữ nhất. Để băng được qua biển em cần phải có một con thuyền thật chắc." Caspar liếc nhìn Nick. "Nô lệ không có thuyền, nhưng nửa đêm khi trăng tròn, có một cách cho họ vượt biển, đó là niềm vui và lòng dũng cảm."
Nick căng người chờ đợi. Một lát sau Caspa mới hất đầu về phía biển: "Ở ngoài đó", anh nói "Khi trăng tròn sẽ có một lối đi băng qua biển. Lối ấy rất dài và thẳng. Tít tận cùng của nó là một miền đất mát lạnh chứ không nóng bỏng như nơi này." Caspar quay đầu nhìn Nick, đôi mắt thật nghiêm nghị: "Muốn theo lối đó phải đi cho thật nhanh vì nếu bình minh lên là không thể đi tiếp được nữa, muốn thoát lại phải chờ cho đến tháng sau."
Thằng bé cảm thấy cổ họng như nghẹn tắc lại vì thất vọng. Nó liếc Caspar bằng đôi mắt đẫm nước. "Em đã nhìn thấy một lối đi như thế rồi." Không chịu nổi thằng bé khóc nấc lên "Nó được làm bằng ánh sáng chứ gì. Không ai có thể đi trên đó được. Anh nói dối."
Caspar nhún vai: "Anh nói cho chú mày biết. Một người đàn ông cần phải có niềm tin và lòng dũng cảm, nghe chưa!" Nói rồi Caspar cầm lưới lên và cắm cúi vá như không hề có mặt Nick ở đó.
Một lát sau, thằng bé nín khóc, nó đưa tay quẹt những giọt nước mắt rồi đứng lên đi bộ về hướng thị xã.
Nhiều ngày trôi qua. Một tối nọ sau một ngày làm việc cực nhọc, Nick bị chủ đánh đập và bắt nhịn khát. Nằm trong bụi bẩn nó khóc thật lâu. Khóc hết nước mắt nó ngồi lên lấy khuỷu tay chùi đám bụi nhão nhoẹt, bẩn thỉu dưới cằm.
"Không ở đây được nữa" Nó tự bảo "Không thể để bị đánh đập hành hạ, bỏ chết khát thế này được. Phải chạy xa, phải trốn ngay đêm nay". Lết qua bên kia sàn, nơi có để một cái giũa, nó cố căng hết sợi dây với cho bằng được. Cuối cùng thì cái giũa cũng nằm giữa đầu mấy ngón tay. Dồn tất cả mọi sức mạnh còn lại nó cưa thật nhanh.
Đã một giờ trôi qua, mệt quá Nick ngừng tay há hốc mồm thở hổn hển, mồ hôi ướt đẫm. Không dám nghỉ lâu, nó lại tiếp tục giũa. Đến nửa đêm một mối nối bung ra, Nick toài người đứng lên, căng mắt nhìn ra cửa sổ, dỏng tai lên nghe ngóng. Xung quanh, những con đường tràn ngập ánh trăng và im ắng không một bóng người.
Nick nhón chân rón rén ra khỏi lò rèn nhẹ như một con mèo rồi vụt nhanh từ góc tối này qua góc tối khác. Bây giờ nó không biết phải đi đâu. Ba phía của thị trấn này đều là sa mạc, phía duy nhất còn lại là biển. Sa mạc, vậy nó phải gắng để băng qua sa mạc. Vừa ngoặt vào một ngõ có cây cối um tùm, chợt nó thét lên kinh hoàng. Ngay phía trước, đang cúi mình núp sau một lùm cây chính là lão chủ. Trong tay ông ta lăm lăm một cây búa to sẵn sàng bổ xuống bất cứ lúc nào. Nick quay cuồng lảo đảo.
"Có đứa bỏ trốn!" Tiếng chủ nó gào lên đuổi theo phía sau lưng.
Giọng ông ta vang rền khắp các ngõ ngách trong đêm tĩnh lặng. Một cánh cửa bật mở, rồi tiếp theo là những cánh cửa khác. Những bóng người nháo nhác lao ra khỏi nhà. Nick rẽ ngoặt sang lối bên cạnh, cắm cúi tiếp tục chạy. Người ta la thét gọi nhau. Phía trước cũng đã bị chặn. Nó chạy lòng vòng. Những người đàn ông nhào theo, lão chủ trông như một con khỉ bắt chước múa may cây búa trên đầu. Nó chạy sang bên trái. Một cái bóng lùn tịt đang cúi rạp lúp xúp dưới bụi cây, cánh tay to ngắn chìa ra. Thằng bé phóng vụt qua. "Đến đó!" Nó hét lên, Vắt chân lên cổ chạy thục mạng giữa những lối đi trống hoác, vừa chạy vừa thở vừa la tên của một kẻ nô lệ khác: "Bruin! Bruin!..."
Bóng những khối nhà hiện rõ mồn một qua vai. Lão chủ đang đuổi theo phía sau, bây giờ gần hơn, cái búa trong tay ông ta huơ huơ trên cao. Nick chạy như điên, đột nhiên chân bị khựng lại vì lún trong cát ẩm. Biển! họ đã đưa nó tới biển! Nó ngước lên, oà khóc nức nở, nhảy vào những góc đá luồn dọc theo bãi biển, nghe rõ tiếng giày đang lùng sục ngay phía sau cùng tiếng thở rít của lão chủ. Ngoái đầu nhìn quanh, đôi mắt dại đi, miệng nó há hốc. Chưa bao giờ nó nhìn thấy những tảng đá lớn như thế này. Đầu gối bị đập mạnh vào một tảng đá, nó ngã dúi dụi vào cát, lăn lông lốc mấy vòng và hét lên thất thanh. Chủ nó đã đến gần, lão ta nâng cây búa khổng lồ lên. Một tiếng ré. Cây búa rơi xuống, cát bắn tung toé sát cạnh đầu Nick. Sau đó lão ta lảo đảo té phịch xuống bên cạnh.
Một hình hài bờm xờm lông lá đang lắc lư dưới ánh trăng, miệng gầm gừ. "Bruin! "Con gấu quay đầu về hướng Nick. Sợi xích dài lòng thòng vẫn còn quấn quanh cổ. Nick ngước nhìn cái đầu to xù rồi nhìn lên bầu trời. Nơi đó, mặt trăng đang tuôn ra thứ ánh sáng mát rượi, dịu êm. Mát rượi và tròn đầy. Caspar! Thằng bé nhìn ra biển, đúng rồi, ở đó. "Em tin rồi."Nick thổn thức.
Những người đàn ông cũng đang đến, họ im lặng chạy trong cát.
Và rồi, không biết tự lúc nào, dọc theo bãi biển, mọi người đều đã đứng đấy, miệng mở to, mắt nhìn chăm chắm như bị thôi miên. Ai đó đang chạy chợt khựng lại, sững sờ nhìn xuống, bóng anh ta đang tắm trong ánh trăng vằng vặc. Cứ thế tất cả họ đều dừng lại và đứng như thế, suốt đêm nhìn ra biển. Thời gian cứ trôi, cứ trôi, hình như có ai gật đầu hay thì thầm điều gì đó rất nhẹ. Rồi thì khi bình minh sắp lên, người ta chợt quay lại nhìn sâu vào mắt nhau, những đôi chân bắt đầu cựa quậy. Nhẹ nhàng từng người hoặc từng đôi một chầm chậm, lặng lẽ quay gót trở về. Họ đi ngang qua người chủ lò rèn đang ngồi thu lu lưng tựa vào một tảng đá. Ông ta lên tiếng hỏi người nào đó: "Thằng bé đâu?" và hỏi một người khác: "Có chuyện gì xảy ra vậy? "Nhưng hình như chẳng có ai trả lời, người ta chỉ im lặng gật đầu như đang trong một giấc mơ.
Sau nữa đến lượt ông chủ của chú gấu con đi đến, trong tay vẫn còn lủng lẳng ổ khoá đã bị gãy của chiếc chuồng nhốt thú. Lúc ấy ở một nơi xa, rất xa cơn gió mát lạnh đang thổi tung đám tóc trên đầu Nick, và Bruin thì chúi cái đầu to xù của nó xuống thè lưỡi liếm tuyết.
NGUYỆT THU dịch
(Way with Words, NXB Heinemann New Windmills 2001)

(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.

  • YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.

  • KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.

  • KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.

  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.