Lối trăng

16:56 03/09/2008
ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

Ở tận cùng mỏm đất, nơi sóng vỗ vào bờ cát bỏng rát là một thị trấn tồi tàn với những toà nhà xấu xí và vài con đường hẹp. Một trong những con đường đó có một cái lò rèn.
Nick làm việc trong đó. Suốt ngày nó đeo chiếc tạp dề cứng ngắc dầy cộm đứng trước lò nóng hừng hực thổi lửa cho chủ. Ban đêm lại nằm trên nền đất bẩn thỉu cạnh lò, chân bị xiềng chặt. Cha mẹ nó đã bán nó cho chủ lò rèn được bảy năm rồi. Lúc đầu Nick khóc nhiều lắm, nhất là khi đêm xuống. Nó nhớ cha mẹ nhưng căm ghét họ. Ghét họ đã bỏ nó bơ vơ. Nó thề rằng không bao giờ thèm nhìn mặt họ nữa.
Thỉnh thoảng chủ Nick lại chất những thứ làm được lên xe kéo và bảo nó kéo đi giao cho những nơi đã đặt hàng. Những lúc như vậy Nick thường nhìn chăm chăm vào tất cả những khuôn mặt đi ngang qua, hy vọng sẽ có người nào đó sẽ nở một nụ cười hay gật đầu với nó, dù chỉ là một cái gật đầu thật nhẹ. Đôi lúc nó khao khát một lời hỏi thăm của ai đó tốt bụng qua đường dành cho. Nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ và chưa có ai cả. Đúng là một thị trấn xấu xa, khốn khổ với toàn những kẻ thật xấu xa và tầm thường.
Một buổi chiều khi đang gồng người ra sức kéo xe ngang thị trấn, thằng bé nhìn thấy một đám đông đang xúm xít trên bãi đất trống. Tiếng la hét cười nói ồn ào. Nick đặt càng xe xuống, len vào ngó. Thân hình nó nhỏ thó, ốm nhom nên dễ
dàng len lỏi lên phía trước. Giữa đám đông đứng quây tròn, giữa bụi đất mù mịt là một con gấu nhỏ đang đứng hai chân. Quanh cổ quấn một vòng xích sắt nặng trịch. Một người đàn ông, chắc là chủ nó một tay giữ chặt sợi xích, tay kia cầm một chiếc gậy nhọn. Đúng lúc Nick chen vào người đàn ông thọc mạnh đầu gậy vào con gấu, hét "Xuống, Bruin!". Hai chân con gấu khuỵu xuống, sau đó lăn tròn trên đám bụi nằm im giả chết. Đám đông bật cười. Ai đó thảy một đồng xu vào chiếc nón để ngửa gần đấy. "Đứng lên, Bruin!" Ông ta lại hét, xoắn mạnh sợi xích. Con gấu tội nghiệp chậm chạp lồm cồm ngồi lên. Nick nhìn con vật nhỏ, nó hiểu con gấu đang cảm thấy khổ sở thế nào trong bộ lông dày cộm, dưới thời tiết oi nồng, bức bối như ngày hôm nay.
Người đàn ông lại thọc mạnh đầu nhọn vào sườn con vật tội nghiệp, "Nhảy, Bruin!"
Con gấu đưa hai chân trước lên, bắt đầu khật khừ nhảy bên này rồi nhảy bên kia, cái đầu lắc lư một cách nặng nề. "Nhanh nữa!" Chủ nó rít qua kẽ răng, thọc thẳng gậy vào bên sườn con vật. Mọi người lại cười. Bruin ráng sức di chuyển nhanh hơn một chút. Một đám ruồi nhặng bay vo ve trên đầu và bu đầy xung quanh mắt nó.
Người đàn ông bỏ gậy xuống, chụm miệng lại, vừa gật gù vừa huýt lên một điệu nhạc rin rít, vài đồng xu nữa rơi vào nón. Bruin nhúc nhích tấm thân mệt mỏi theo tiếng huýt. Vài phút sau ông ta ngưng lại, con gấu thả phịch đôi chân trước xuống. Vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt vang lên. Người đàn ông lại nhăn nhở cười và cúi chào.
Nick buồn bã quay đi, con gấu tội nghiệp ngẩng đầu nhìn nó. Thằng bé dừng lại quay đầu nhìn vào đôi mắt đáng thương của con vật nhỏ. Trong khoảnh khắc, cổ họng Nick nghẹn tắc, mắt nó cay xè, một nỗi buồn dâng lên bóp nghẹt lấy trái tim bé bỏng. Nick mím chặt môi quay người chui ra khỏi đám đông. Thằng bé cảm thấy đôi mắt con vật buồn bã nhìn theo như đang cầu khẩn van xin. Nick nhấc càng xe lên đi tiếp, không dám ngoái đầu nhìn lại.
Đêm đó, nằm trên nền đất bẩn, chân bị xích, Nick nghĩ về Bruin. Hình ảnh đôi mắt toét nhèm với đám ruồi nhặng bu đầy xung quanh, cái lưỡi khô còng lè ra của Bruin cứ ám ảnh nó. Rồi đột nhiên nó thì thầm một mình trong bóng đêm: "Ngày nào đó, Bruin ơi, tao với mày sẽ vượt biển tới một nơi nào đó trong mát như mặt trăng ấy. Ở nơi đó sẽ không có bọn ruồi, chẳng có xích xiềng... " Thằng bé hơi nhích người, sợi xích dưới chân nó kêu lên loảng xoảng. Thở dài, nó nhắm mắt lại 'Một ngày nào đó, nhất định thế... " Nó lại thầm thì và lại ngủ thiếp đi trong khi mặt trăng mát dịu đang lướt thật nhẹ trên bầu trời
Sáng hôm sau, lão chủ ra lệnh: "Cầm cái mỏ neo này tới chỗ thằng đánh cá Caspar. Tìm nó trên bãi cát ấy, nó đang vá lưới ở đấy."
Vừa bước ra khỏi cửa, mặt trời như nện cây búa lửa to tướng vào nó. "Một nơi ghê tởm" Nick rủa thầm. " Rồi có ngày mình bị cháy đen xì như cái mỏ neo này mất thôi."
Trên bãi cát, Caspar đang ngồi vá lưới. Trông thấy Nick anh ta ngước lên, nheo hết mắt vì nắng. "À, xong rồi hả, đưa đây."
Nick đưa mỏ neo cho Caspar, cát dưới chân bỏng rãy làm nó cứ phải nhảy loi choi.
Người đánh cá cầm mỏ neo lật qua lật lại kiểm tra rồi nói: " Về bảo chủ mày là được rồi, mai tao trả tiền cho."
Nick gật đầu quay đi, vừa lúc đó nghe tiếng Caspar: "Anh nhìn thấy mày hôm qua nhóc ạ, lúc xem xiếc gấu."
Nick quay lại. Đôi mắt xanh nhạt nhìn người đánh cá như có ánh lấp lánh. Thằng bé gật đầu "Vâng, hai đứa đều là nô lệ, con gấu và em."
Chợt nó hối hận vì câu buột miệng vừa rồi. Lỡ người đàn ông này đem nói lại với chủ thì sao? Nó sợ hãi nhìn Caspar. Anh ta nháy mắt. "Đừng sợ!" Caspar nói bằng một giọng nhẹ nhàng. "Anh không phải làm nô lệ như mày, nhưng nếu bị thế thì anh tìm đến lối trăng từ lâu rồi."
Nick không hiểu: "Lối trăng?" Nó thì thầm. Caspar gật đầu.
"Lối trăng là gì? " Nick hỏi và nghĩ chắc anh ta chế nhạo mình.
"Đó là con đường đi tới tự do, một vệt sáng bạc nằm trên biển."
Nick quay đầu nhìn ra mặt nước màu nâu ấm đang mệt mỏi dập dềnh dưới ánh nắng mặt trời. Môi thằng bé dẩu lên: "Em đâu có thấy vệt bạc nào đâu?"
Caspar gục gặc đầu cười lớn: " Bây giờ làm sao thấy được!" Gương mặt Caspar trở nên mơ màng. Anh lấy tay vỗ nhẹ xuống cát ra hiệu cho Nick ngồi xuống. "Lại đây nhóc, tớ sẽ nói cho mà nghe."
Nick nhìn Caspar nửa sợ hãi rồi rụt rè ngồi xuống. Caspar vòng hai tay bó gối, mắt nhìn xa xăm ra biển.
"Biển rộng thật" Anh ta nói, "Biển là thứ rộng nhất trên trái đất này và cũng hung dữ nhất. Để băng được qua biển em cần phải có một con thuyền thật chắc." Caspar liếc nhìn Nick. "Nô lệ không có thuyền, nhưng nửa đêm khi trăng tròn, có một cách cho họ vượt biển, đó là niềm vui và lòng dũng cảm."
Nick căng người chờ đợi. Một lát sau Caspa mới hất đầu về phía biển: "Ở ngoài đó", anh nói "Khi trăng tròn sẽ có một lối đi băng qua biển. Lối ấy rất dài và thẳng. Tít tận cùng của nó là một miền đất mát lạnh chứ không nóng bỏng như nơi này." Caspar quay đầu nhìn Nick, đôi mắt thật nghiêm nghị: "Muốn theo lối đó phải đi cho thật nhanh vì nếu bình minh lên là không thể đi tiếp được nữa, muốn thoát lại phải chờ cho đến tháng sau."
Thằng bé cảm thấy cổ họng như nghẹn tắc lại vì thất vọng. Nó liếc Caspar bằng đôi mắt đẫm nước. "Em đã nhìn thấy một lối đi như thế rồi." Không chịu nổi thằng bé khóc nấc lên "Nó được làm bằng ánh sáng chứ gì. Không ai có thể đi trên đó được. Anh nói dối."
Caspar nhún vai: "Anh nói cho chú mày biết. Một người đàn ông cần phải có niềm tin và lòng dũng cảm, nghe chưa!" Nói rồi Caspar cầm lưới lên và cắm cúi vá như không hề có mặt Nick ở đó.
Một lát sau, thằng bé nín khóc, nó đưa tay quẹt những giọt nước mắt rồi đứng lên đi bộ về hướng thị xã.
Nhiều ngày trôi qua. Một tối nọ sau một ngày làm việc cực nhọc, Nick bị chủ đánh đập và bắt nhịn khát. Nằm trong bụi bẩn nó khóc thật lâu. Khóc hết nước mắt nó ngồi lên lấy khuỷu tay chùi đám bụi nhão nhoẹt, bẩn thỉu dưới cằm.
"Không ở đây được nữa" Nó tự bảo "Không thể để bị đánh đập hành hạ, bỏ chết khát thế này được. Phải chạy xa, phải trốn ngay đêm nay". Lết qua bên kia sàn, nơi có để một cái giũa, nó cố căng hết sợi dây với cho bằng được. Cuối cùng thì cái giũa cũng nằm giữa đầu mấy ngón tay. Dồn tất cả mọi sức mạnh còn lại nó cưa thật nhanh.
Đã một giờ trôi qua, mệt quá Nick ngừng tay há hốc mồm thở hổn hển, mồ hôi ướt đẫm. Không dám nghỉ lâu, nó lại tiếp tục giũa. Đến nửa đêm một mối nối bung ra, Nick toài người đứng lên, căng mắt nhìn ra cửa sổ, dỏng tai lên nghe ngóng. Xung quanh, những con đường tràn ngập ánh trăng và im ắng không một bóng người.
Nick nhón chân rón rén ra khỏi lò rèn nhẹ như một con mèo rồi vụt nhanh từ góc tối này qua góc tối khác. Bây giờ nó không biết phải đi đâu. Ba phía của thị trấn này đều là sa mạc, phía duy nhất còn lại là biển. Sa mạc, vậy nó phải gắng để băng qua sa mạc. Vừa ngoặt vào một ngõ có cây cối um tùm, chợt nó thét lên kinh hoàng. Ngay phía trước, đang cúi mình núp sau một lùm cây chính là lão chủ. Trong tay ông ta lăm lăm một cây búa to sẵn sàng bổ xuống bất cứ lúc nào. Nick quay cuồng lảo đảo.
"Có đứa bỏ trốn!" Tiếng chủ nó gào lên đuổi theo phía sau lưng.
Giọng ông ta vang rền khắp các ngõ ngách trong đêm tĩnh lặng. Một cánh cửa bật mở, rồi tiếp theo là những cánh cửa khác. Những bóng người nháo nhác lao ra khỏi nhà. Nick rẽ ngoặt sang lối bên cạnh, cắm cúi tiếp tục chạy. Người ta la thét gọi nhau. Phía trước cũng đã bị chặn. Nó chạy lòng vòng. Những người đàn ông nhào theo, lão chủ trông như một con khỉ bắt chước múa may cây búa trên đầu. Nó chạy sang bên trái. Một cái bóng lùn tịt đang cúi rạp lúp xúp dưới bụi cây, cánh tay to ngắn chìa ra. Thằng bé phóng vụt qua. "Đến đó!" Nó hét lên, Vắt chân lên cổ chạy thục mạng giữa những lối đi trống hoác, vừa chạy vừa thở vừa la tên của một kẻ nô lệ khác: "Bruin! Bruin!..."
Bóng những khối nhà hiện rõ mồn một qua vai. Lão chủ đang đuổi theo phía sau, bây giờ gần hơn, cái búa trong tay ông ta huơ huơ trên cao. Nick chạy như điên, đột nhiên chân bị khựng lại vì lún trong cát ẩm. Biển! họ đã đưa nó tới biển! Nó ngước lên, oà khóc nức nở, nhảy vào những góc đá luồn dọc theo bãi biển, nghe rõ tiếng giày đang lùng sục ngay phía sau cùng tiếng thở rít của lão chủ. Ngoái đầu nhìn quanh, đôi mắt dại đi, miệng nó há hốc. Chưa bao giờ nó nhìn thấy những tảng đá lớn như thế này. Đầu gối bị đập mạnh vào một tảng đá, nó ngã dúi dụi vào cát, lăn lông lốc mấy vòng và hét lên thất thanh. Chủ nó đã đến gần, lão ta nâng cây búa khổng lồ lên. Một tiếng ré. Cây búa rơi xuống, cát bắn tung toé sát cạnh đầu Nick. Sau đó lão ta lảo đảo té phịch xuống bên cạnh.
Một hình hài bờm xờm lông lá đang lắc lư dưới ánh trăng, miệng gầm gừ. "Bruin! "Con gấu quay đầu về hướng Nick. Sợi xích dài lòng thòng vẫn còn quấn quanh cổ. Nick ngước nhìn cái đầu to xù rồi nhìn lên bầu trời. Nơi đó, mặt trăng đang tuôn ra thứ ánh sáng mát rượi, dịu êm. Mát rượi và tròn đầy. Caspar! Thằng bé nhìn ra biển, đúng rồi, ở đó. "Em tin rồi."Nick thổn thức.
Những người đàn ông cũng đang đến, họ im lặng chạy trong cát.
Và rồi, không biết tự lúc nào, dọc theo bãi biển, mọi người đều đã đứng đấy, miệng mở to, mắt nhìn chăm chắm như bị thôi miên. Ai đó đang chạy chợt khựng lại, sững sờ nhìn xuống, bóng anh ta đang tắm trong ánh trăng vằng vặc. Cứ thế tất cả họ đều dừng lại và đứng như thế, suốt đêm nhìn ra biển. Thời gian cứ trôi, cứ trôi, hình như có ai gật đầu hay thì thầm điều gì đó rất nhẹ. Rồi thì khi bình minh sắp lên, người ta chợt quay lại nhìn sâu vào mắt nhau, những đôi chân bắt đầu cựa quậy. Nhẹ nhàng từng người hoặc từng đôi một chầm chậm, lặng lẽ quay gót trở về. Họ đi ngang qua người chủ lò rèn đang ngồi thu lu lưng tựa vào một tảng đá. Ông ta lên tiếng hỏi người nào đó: "Thằng bé đâu?" và hỏi một người khác: "Có chuyện gì xảy ra vậy? "Nhưng hình như chẳng có ai trả lời, người ta chỉ im lặng gật đầu như đang trong một giấc mơ.
Sau nữa đến lượt ông chủ của chú gấu con đi đến, trong tay vẫn còn lủng lẳng ổ khoá đã bị gãy của chiếc chuồng nhốt thú. Lúc ấy ở một nơi xa, rất xa cơn gió mát lạnh đang thổi tung đám tóc trên đầu Nick, và Bruin thì chúi cái đầu to xù của nó xuống thè lưỡi liếm tuyết.
NGUYỆT THU dịch
(Way with Words, NXB Heinemann New Windmills 2001)

(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.

  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.