Lối trăng

16:56 03/09/2008
ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

Ở tận cùng mỏm đất, nơi sóng vỗ vào bờ cát bỏng rát là một thị trấn tồi tàn với những toà nhà xấu xí và vài con đường hẹp. Một trong những con đường đó có một cái lò rèn.
Nick làm việc trong đó. Suốt ngày nó đeo chiếc tạp dề cứng ngắc dầy cộm đứng trước lò nóng hừng hực thổi lửa cho chủ. Ban đêm lại nằm trên nền đất bẩn thỉu cạnh lò, chân bị xiềng chặt. Cha mẹ nó đã bán nó cho chủ lò rèn được bảy năm rồi. Lúc đầu Nick khóc nhiều lắm, nhất là khi đêm xuống. Nó nhớ cha mẹ nhưng căm ghét họ. Ghét họ đã bỏ nó bơ vơ. Nó thề rằng không bao giờ thèm nhìn mặt họ nữa.
Thỉnh thoảng chủ Nick lại chất những thứ làm được lên xe kéo và bảo nó kéo đi giao cho những nơi đã đặt hàng. Những lúc như vậy Nick thường nhìn chăm chăm vào tất cả những khuôn mặt đi ngang qua, hy vọng sẽ có người nào đó sẽ nở một nụ cười hay gật đầu với nó, dù chỉ là một cái gật đầu thật nhẹ. Đôi lúc nó khao khát một lời hỏi thăm của ai đó tốt bụng qua đường dành cho. Nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ và chưa có ai cả. Đúng là một thị trấn xấu xa, khốn khổ với toàn những kẻ thật xấu xa và tầm thường.
Một buổi chiều khi đang gồng người ra sức kéo xe ngang thị trấn, thằng bé nhìn thấy một đám đông đang xúm xít trên bãi đất trống. Tiếng la hét cười nói ồn ào. Nick đặt càng xe xuống, len vào ngó. Thân hình nó nhỏ thó, ốm nhom nên dễ
dàng len lỏi lên phía trước. Giữa đám đông đứng quây tròn, giữa bụi đất mù mịt là một con gấu nhỏ đang đứng hai chân. Quanh cổ quấn một vòng xích sắt nặng trịch. Một người đàn ông, chắc là chủ nó một tay giữ chặt sợi xích, tay kia cầm một chiếc gậy nhọn. Đúng lúc Nick chen vào người đàn ông thọc mạnh đầu gậy vào con gấu, hét "Xuống, Bruin!". Hai chân con gấu khuỵu xuống, sau đó lăn tròn trên đám bụi nằm im giả chết. Đám đông bật cười. Ai đó thảy một đồng xu vào chiếc nón để ngửa gần đấy. "Đứng lên, Bruin!" Ông ta lại hét, xoắn mạnh sợi xích. Con gấu tội nghiệp chậm chạp lồm cồm ngồi lên. Nick nhìn con vật nhỏ, nó hiểu con gấu đang cảm thấy khổ sở thế nào trong bộ lông dày cộm, dưới thời tiết oi nồng, bức bối như ngày hôm nay.
Người đàn ông lại thọc mạnh đầu nhọn vào sườn con vật tội nghiệp, "Nhảy, Bruin!"
Con gấu đưa hai chân trước lên, bắt đầu khật khừ nhảy bên này rồi nhảy bên kia, cái đầu lắc lư một cách nặng nề. "Nhanh nữa!" Chủ nó rít qua kẽ răng, thọc thẳng gậy vào bên sườn con vật. Mọi người lại cười. Bruin ráng sức di chuyển nhanh hơn một chút. Một đám ruồi nhặng bay vo ve trên đầu và bu đầy xung quanh mắt nó.
Người đàn ông bỏ gậy xuống, chụm miệng lại, vừa gật gù vừa huýt lên một điệu nhạc rin rít, vài đồng xu nữa rơi vào nón. Bruin nhúc nhích tấm thân mệt mỏi theo tiếng huýt. Vài phút sau ông ta ngưng lại, con gấu thả phịch đôi chân trước xuống. Vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt vang lên. Người đàn ông lại nhăn nhở cười và cúi chào.
Nick buồn bã quay đi, con gấu tội nghiệp ngẩng đầu nhìn nó. Thằng bé dừng lại quay đầu nhìn vào đôi mắt đáng thương của con vật nhỏ. Trong khoảnh khắc, cổ họng Nick nghẹn tắc, mắt nó cay xè, một nỗi buồn dâng lên bóp nghẹt lấy trái tim bé bỏng. Nick mím chặt môi quay người chui ra khỏi đám đông. Thằng bé cảm thấy đôi mắt con vật buồn bã nhìn theo như đang cầu khẩn van xin. Nick nhấc càng xe lên đi tiếp, không dám ngoái đầu nhìn lại.
Đêm đó, nằm trên nền đất bẩn, chân bị xích, Nick nghĩ về Bruin. Hình ảnh đôi mắt toét nhèm với đám ruồi nhặng bu đầy xung quanh, cái lưỡi khô còng lè ra của Bruin cứ ám ảnh nó. Rồi đột nhiên nó thì thầm một mình trong bóng đêm: "Ngày nào đó, Bruin ơi, tao với mày sẽ vượt biển tới một nơi nào đó trong mát như mặt trăng ấy. Ở nơi đó sẽ không có bọn ruồi, chẳng có xích xiềng... " Thằng bé hơi nhích người, sợi xích dưới chân nó kêu lên loảng xoảng. Thở dài, nó nhắm mắt lại 'Một ngày nào đó, nhất định thế... " Nó lại thầm thì và lại ngủ thiếp đi trong khi mặt trăng mát dịu đang lướt thật nhẹ trên bầu trời
Sáng hôm sau, lão chủ ra lệnh: "Cầm cái mỏ neo này tới chỗ thằng đánh cá Caspar. Tìm nó trên bãi cát ấy, nó đang vá lưới ở đấy."
Vừa bước ra khỏi cửa, mặt trời như nện cây búa lửa to tướng vào nó. "Một nơi ghê tởm" Nick rủa thầm. " Rồi có ngày mình bị cháy đen xì như cái mỏ neo này mất thôi."
Trên bãi cát, Caspar đang ngồi vá lưới. Trông thấy Nick anh ta ngước lên, nheo hết mắt vì nắng. "À, xong rồi hả, đưa đây."
Nick đưa mỏ neo cho Caspar, cát dưới chân bỏng rãy làm nó cứ phải nhảy loi choi.
Người đánh cá cầm mỏ neo lật qua lật lại kiểm tra rồi nói: " Về bảo chủ mày là được rồi, mai tao trả tiền cho."
Nick gật đầu quay đi, vừa lúc đó nghe tiếng Caspar: "Anh nhìn thấy mày hôm qua nhóc ạ, lúc xem xiếc gấu."
Nick quay lại. Đôi mắt xanh nhạt nhìn người đánh cá như có ánh lấp lánh. Thằng bé gật đầu "Vâng, hai đứa đều là nô lệ, con gấu và em."
Chợt nó hối hận vì câu buột miệng vừa rồi. Lỡ người đàn ông này đem nói lại với chủ thì sao? Nó sợ hãi nhìn Caspar. Anh ta nháy mắt. "Đừng sợ!" Caspar nói bằng một giọng nhẹ nhàng. "Anh không phải làm nô lệ như mày, nhưng nếu bị thế thì anh tìm đến lối trăng từ lâu rồi."
Nick không hiểu: "Lối trăng?" Nó thì thầm. Caspar gật đầu.
"Lối trăng là gì? " Nick hỏi và nghĩ chắc anh ta chế nhạo mình.
"Đó là con đường đi tới tự do, một vệt sáng bạc nằm trên biển."
Nick quay đầu nhìn ra mặt nước màu nâu ấm đang mệt mỏi dập dềnh dưới ánh nắng mặt trời. Môi thằng bé dẩu lên: "Em đâu có thấy vệt bạc nào đâu?"
Caspar gục gặc đầu cười lớn: " Bây giờ làm sao thấy được!" Gương mặt Caspar trở nên mơ màng. Anh lấy tay vỗ nhẹ xuống cát ra hiệu cho Nick ngồi xuống. "Lại đây nhóc, tớ sẽ nói cho mà nghe."
Nick nhìn Caspar nửa sợ hãi rồi rụt rè ngồi xuống. Caspar vòng hai tay bó gối, mắt nhìn xa xăm ra biển.
"Biển rộng thật" Anh ta nói, "Biển là thứ rộng nhất trên trái đất này và cũng hung dữ nhất. Để băng được qua biển em cần phải có một con thuyền thật chắc." Caspar liếc nhìn Nick. "Nô lệ không có thuyền, nhưng nửa đêm khi trăng tròn, có một cách cho họ vượt biển, đó là niềm vui và lòng dũng cảm."
Nick căng người chờ đợi. Một lát sau Caspa mới hất đầu về phía biển: "Ở ngoài đó", anh nói "Khi trăng tròn sẽ có một lối đi băng qua biển. Lối ấy rất dài và thẳng. Tít tận cùng của nó là một miền đất mát lạnh chứ không nóng bỏng như nơi này." Caspar quay đầu nhìn Nick, đôi mắt thật nghiêm nghị: "Muốn theo lối đó phải đi cho thật nhanh vì nếu bình minh lên là không thể đi tiếp được nữa, muốn thoát lại phải chờ cho đến tháng sau."
Thằng bé cảm thấy cổ họng như nghẹn tắc lại vì thất vọng. Nó liếc Caspar bằng đôi mắt đẫm nước. "Em đã nhìn thấy một lối đi như thế rồi." Không chịu nổi thằng bé khóc nấc lên "Nó được làm bằng ánh sáng chứ gì. Không ai có thể đi trên đó được. Anh nói dối."
Caspar nhún vai: "Anh nói cho chú mày biết. Một người đàn ông cần phải có niềm tin và lòng dũng cảm, nghe chưa!" Nói rồi Caspar cầm lưới lên và cắm cúi vá như không hề có mặt Nick ở đó.
Một lát sau, thằng bé nín khóc, nó đưa tay quẹt những giọt nước mắt rồi đứng lên đi bộ về hướng thị xã.
Nhiều ngày trôi qua. Một tối nọ sau một ngày làm việc cực nhọc, Nick bị chủ đánh đập và bắt nhịn khát. Nằm trong bụi bẩn nó khóc thật lâu. Khóc hết nước mắt nó ngồi lên lấy khuỷu tay chùi đám bụi nhão nhoẹt, bẩn thỉu dưới cằm.
"Không ở đây được nữa" Nó tự bảo "Không thể để bị đánh đập hành hạ, bỏ chết khát thế này được. Phải chạy xa, phải trốn ngay đêm nay". Lết qua bên kia sàn, nơi có để một cái giũa, nó cố căng hết sợi dây với cho bằng được. Cuối cùng thì cái giũa cũng nằm giữa đầu mấy ngón tay. Dồn tất cả mọi sức mạnh còn lại nó cưa thật nhanh.
Đã một giờ trôi qua, mệt quá Nick ngừng tay há hốc mồm thở hổn hển, mồ hôi ướt đẫm. Không dám nghỉ lâu, nó lại tiếp tục giũa. Đến nửa đêm một mối nối bung ra, Nick toài người đứng lên, căng mắt nhìn ra cửa sổ, dỏng tai lên nghe ngóng. Xung quanh, những con đường tràn ngập ánh trăng và im ắng không một bóng người.
Nick nhón chân rón rén ra khỏi lò rèn nhẹ như một con mèo rồi vụt nhanh từ góc tối này qua góc tối khác. Bây giờ nó không biết phải đi đâu. Ba phía của thị trấn này đều là sa mạc, phía duy nhất còn lại là biển. Sa mạc, vậy nó phải gắng để băng qua sa mạc. Vừa ngoặt vào một ngõ có cây cối um tùm, chợt nó thét lên kinh hoàng. Ngay phía trước, đang cúi mình núp sau một lùm cây chính là lão chủ. Trong tay ông ta lăm lăm một cây búa to sẵn sàng bổ xuống bất cứ lúc nào. Nick quay cuồng lảo đảo.
"Có đứa bỏ trốn!" Tiếng chủ nó gào lên đuổi theo phía sau lưng.
Giọng ông ta vang rền khắp các ngõ ngách trong đêm tĩnh lặng. Một cánh cửa bật mở, rồi tiếp theo là những cánh cửa khác. Những bóng người nháo nhác lao ra khỏi nhà. Nick rẽ ngoặt sang lối bên cạnh, cắm cúi tiếp tục chạy. Người ta la thét gọi nhau. Phía trước cũng đã bị chặn. Nó chạy lòng vòng. Những người đàn ông nhào theo, lão chủ trông như một con khỉ bắt chước múa may cây búa trên đầu. Nó chạy sang bên trái. Một cái bóng lùn tịt đang cúi rạp lúp xúp dưới bụi cây, cánh tay to ngắn chìa ra. Thằng bé phóng vụt qua. "Đến đó!" Nó hét lên, Vắt chân lên cổ chạy thục mạng giữa những lối đi trống hoác, vừa chạy vừa thở vừa la tên của một kẻ nô lệ khác: "Bruin! Bruin!..."
Bóng những khối nhà hiện rõ mồn một qua vai. Lão chủ đang đuổi theo phía sau, bây giờ gần hơn, cái búa trong tay ông ta huơ huơ trên cao. Nick chạy như điên, đột nhiên chân bị khựng lại vì lún trong cát ẩm. Biển! họ đã đưa nó tới biển! Nó ngước lên, oà khóc nức nở, nhảy vào những góc đá luồn dọc theo bãi biển, nghe rõ tiếng giày đang lùng sục ngay phía sau cùng tiếng thở rít của lão chủ. Ngoái đầu nhìn quanh, đôi mắt dại đi, miệng nó há hốc. Chưa bao giờ nó nhìn thấy những tảng đá lớn như thế này. Đầu gối bị đập mạnh vào một tảng đá, nó ngã dúi dụi vào cát, lăn lông lốc mấy vòng và hét lên thất thanh. Chủ nó đã đến gần, lão ta nâng cây búa khổng lồ lên. Một tiếng ré. Cây búa rơi xuống, cát bắn tung toé sát cạnh đầu Nick. Sau đó lão ta lảo đảo té phịch xuống bên cạnh.
Một hình hài bờm xờm lông lá đang lắc lư dưới ánh trăng, miệng gầm gừ. "Bruin! "Con gấu quay đầu về hướng Nick. Sợi xích dài lòng thòng vẫn còn quấn quanh cổ. Nick ngước nhìn cái đầu to xù rồi nhìn lên bầu trời. Nơi đó, mặt trăng đang tuôn ra thứ ánh sáng mát rượi, dịu êm. Mát rượi và tròn đầy. Caspar! Thằng bé nhìn ra biển, đúng rồi, ở đó. "Em tin rồi."Nick thổn thức.
Những người đàn ông cũng đang đến, họ im lặng chạy trong cát.
Và rồi, không biết tự lúc nào, dọc theo bãi biển, mọi người đều đã đứng đấy, miệng mở to, mắt nhìn chăm chắm như bị thôi miên. Ai đó đang chạy chợt khựng lại, sững sờ nhìn xuống, bóng anh ta đang tắm trong ánh trăng vằng vặc. Cứ thế tất cả họ đều dừng lại và đứng như thế, suốt đêm nhìn ra biển. Thời gian cứ trôi, cứ trôi, hình như có ai gật đầu hay thì thầm điều gì đó rất nhẹ. Rồi thì khi bình minh sắp lên, người ta chợt quay lại nhìn sâu vào mắt nhau, những đôi chân bắt đầu cựa quậy. Nhẹ nhàng từng người hoặc từng đôi một chầm chậm, lặng lẽ quay gót trở về. Họ đi ngang qua người chủ lò rèn đang ngồi thu lu lưng tựa vào một tảng đá. Ông ta lên tiếng hỏi người nào đó: "Thằng bé đâu?" và hỏi một người khác: "Có chuyện gì xảy ra vậy? "Nhưng hình như chẳng có ai trả lời, người ta chỉ im lặng gật đầu như đang trong một giấc mơ.
Sau nữa đến lượt ông chủ của chú gấu con đi đến, trong tay vẫn còn lủng lẳng ổ khoá đã bị gãy của chiếc chuồng nhốt thú. Lúc ấy ở một nơi xa, rất xa cơn gió mát lạnh đang thổi tung đám tóc trên đầu Nick, và Bruin thì chúi cái đầu to xù của nó xuống thè lưỡi liếm tuyết.
NGUYỆT THU dịch
(Way with Words, NXB Heinemann New Windmills 2001)

(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Paul William Gallico (1897-1976) là một nhà văn, phóng viên thể thao nổi tiếng của Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyện, phim truyền hình, có tác phẩm đã đạt giải Oscar. Cha ông người Ý, mẹ người Áo, bản thân ông đã nhiều năm sống ở châu Âu. Là người đa tài và viết khỏe, ông có hàng chục đầu sách: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim truyền hình, thể thao. Những tác phẩm nổi tiếng của Gallico là: Ngỗng tuyết, Tình yêu của bảy con búp bê, Cuộc phiên lưu Poseidon.

  • ANTONIO TABUCCHIAntonio Tabucchi (sinh năm 1945) là một trong những nhà văn được đọc nhiều nhất và dịch nhiều nhất hiện nay của Italia, bậc thầy nổi tiếng về truyện ngắn tâm lý.

  • IVAN BUNHINLúc ông ta đội mũ, đi trên phố hay đứng trong toa tàu điện ngầm không thấy rõ mái tóc cắt ngắn hung hung đỏ có những sợi lóng lánh, qua vẻ tươi tỉnh của gương mặt gầy, nhẵn nhụi, thân hình cao xương xương cứng đơ trong chiếc pan- tô không thấm, có thể đoán ông không quá 40. Chỉ cặp mắt xám nhạt luôn chứa một nỗi buồn khô khốc nói lên rằng ông là một người đã nếm trải nhiều trong cuộc đời.

  • LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.

  • BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.

  • AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.

  • AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.

  • Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…

  • Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.

  • HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

  • SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.

  • KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết  truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.

  • FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.

  • MIKHAIN SÔLÔKHỐP                Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.

  • KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.

  • ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

  • GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.

  • GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.

  • JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.

  • SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.