ĐÀO DUY ANH
Ảnh: internet
Không đề tháng bảy
Nếu một ngày thấy chán người đàn ông vừa qua đời mình xin đừng nấc lên lời quá thể như ân huệ đừng đặt những câu hỏi nhạy cảm vào giả định ngây thơ người đàn ông sẽ chẳng bao giờ bỏ buồn vui vào một lúc để gật đầu câu trả lời như phải chẻ ra sợi tóc nhỏ đến cạn cùng mới biết được phần lẩn khuất của thương đau làm sao giải mã hết phép màu và tri giác những giấc mơ đe dọa cảm giác bất ổn đã cấu thành cặn đắng bao kỷ niệm mày mò từ tâm thức từ những mảnh rời của thực tại tang thương người đàn ông gục đầu trong sự hiện hữu của người đàn ông mất bóng gọi giới ước về lầm than trong hơi thở gãy Thiên sứ tình yêu không hoàn tất sứ mạng lời dâng hoài công đời quá nhiều dan díu những xúc cảm rợn người tỉ mẩn từ khi ý đồ nằm ngoài ràng buộc của đạo lý thông thường trầm mình vũng lầy thương kẻ mắc cạn trên đường tìm chân lý gặp đầy dẫy nghịch lý cô đơn làm khách lạ chính mình trong bi kịch lạnh lùng ma thuật đã bày này đâu khải huyền bí nhiệm con người tội nghiệp ngay sự hiện hữu mình cũng khả nghi
Người đàn bà chán cứ thản nhiên mà đi mặc ai ghìm nước mắt cứ thản nhiên mà đi vung cánh tay SG cắt cớ cứ thản nhiên mà đi làm nhân chứng cho một ý thức khốn khổ bệnh Trời còn trở tương tư hái chòm sao về mở tiệc mới một hồi sinh cứ thăng hoa để nhận chân giá về mình khi ngã vào một bờ vai khác vực lên tàn tích cũ đốm da bạch tạng ngày Người đàn bà gọi về con phố chưa từng hắt hiu cái khát khao tuyệt đối sẽ làm nhức nhối hũng trống tâm hồn thế giới tượng trưng thu mình lại ban phát sinh khí và ý thức không đúng với ý thức trong cõi thâm mật của nó mọi nỗ lực tự tri hờ hững cơn khủng hoảng tinh thần của tâm hồn phù phép lửa yêu Người đàn bà bất chấp không thể tự túc trong cõi về cửa huyền bí con tim trải lòng mờ tỏ gọi về hai bản thể trong giấc mơ ảo dụ với SG tình nhân
Trong trò chơi bi thảm của cuộc đời cứa nát một trái tim cần hóa thân vào định mệnh bằng tiếng rên của tuyệt vọng bằng lời mời đi vào hư vô Người đàn ông soạn mình hành trình về nơi khép cửa để tiếng “Chán” kia chưa kịp đến tai mình đi tìm nơi mà núp đời vừa đổ xuống lưng đập nát linh hồn tinh khôi làm mùn cho đất mọc lên cây cô độc cây duy nhất Cuội nằm phong kín niềm tin khờ khạo ngàn năm đốt lá Đa soi vào nhân thế với nhiều câu hỏi găm từng thớ nghĩ bàn tay lạc dấu chỉ đường dang dở để sụt sùi nào ngất xuống bờ đêm có nồng nàn nào đáng thương vừa tắt lửa thôi một êm đềm.
(SH319/09-15)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.