Đọc “Thử xét văn hóa - văn học bằng ngôn ngữ học” của giáo sư Phan Ngọc

09:45 03/06/2008
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

Trong nghiên cứu phê bình, Phan Ngọc là người có cá tính rõ nét. Ông thường tự nói về mình: “Tôi là thằng duy lý, nhìn nghệ thuật qua một hệ thống thao tác” (tr. 216) tự nhận là người có tính “gàn” (tr. 394). Ông biết mình cực đoan nhưng “nghệ thuật là cực đoan, không phải là nơi dĩ hòa vi quý” (tr. 227) biết có sai lầm “Nhưng khoa học tiến lên qua những sai lầm” (tr. 267). Với tư cách là chủ thể nghiên cứu, Phan Ngọc thích dùng chữ “Tôi” hơn là “Ta”, “Chúng ta”, “Chúng tôi”, “Người viết”. Văn phong nghiên cứu của Phan Ngọc không theo lối quy củ mà chịu sự bó buộc theo kiểu của riêng ông. Những hồi ức, liên tưởng, những mối quan hệ đời thường gắn sát với cá nhân ông cùng bao trải nghiệm thực tế trong đời được ông vận dụng để minh chứng, biện thuyết thêm cho những vấn đề về học thuật. Cũng vậy, trong các bài viết khi thì ông tự nhận mình là nhà Hán học, khi thì là nhà văn hóa học khi thì nhà thao tác luận... Theo chúng tôi, cách nhìn nhận như vậy là phù hợp với xuất phát điểm trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu.
Mang khát vọng tìm hiểu cội nguồn văn hóa cha ông và chỉ ra cái hay cái dở ở các nền văn hóa bên ngoài, ông luôn tìm cách cắt nghĩa tại sao mà nó (đối tượng được đề cập) lại như thế này chứ không phải như thế khác. Ông không đồng tình với lối nghiên cứu lấy Châu Âu hay Trung Quốc làm trung tâm để nghiên cứu về văn hóa - văn học Việt Nam và ngược lại. Bằng con đường của riêng mình với xuất phát điểm “văn hóa là một sự lựa chọn” và đặt đối tượng trong tính đối lập, ông đã chỉ ra những nét riêng của những nhà văn hóa, những giá trị mà các nền văn hóa văn học tiêu biểu đóng góp vào cái kho chung của văn hóa nhân loại. Ông thường lặp đi lặp lại luận điểm: nghiên cứu văn hóa phải đặt trong môi trường văn hóa chung, “chỗ yếu của nghiên cứu văn học chính là chỗ xét văn học tách khỏi mọi hình thức nghệ thuật khác” (tr. 280) 
Trong nghiên cứu, Phan Ngọc có nhiều cực đoan mhư đã đề cập. Tiếp đây tôi xin nói rõ hơn. Vì cực đoan mà ta bắt gặp không ít những cụm từ “độc nhất vô nhị”, “chẳng thua kém ai”, “sáng tạo đặc biệt”, “không thể tìm thấy ở đâu khác” “chỉ có ở Việt Nam”. Sự cực đoan ấy do từ hai phía, do từ cá tính của ông và do cách nhìn phong cách học của ông mang lại. Cái nhìn phong cách học luôn đi tìm những nét riêng biệt, nó có thể dẫn đến cực đoan một khi người viết không đủ điều kiện đối chiếu, kiểm chứng, thống kê. Điều hay là sự cực đoan của ông được điều dẫn bởi lý trí, bởi những câu văn giàu tính đối thoại, gợi mở. Có bạn văn nói cùng tôi, khi đọc tác phẩm của Phan Ngọc, lòng không thể bình yên được. Tôi cho đó là một ý kiến chí lý. Đồng ý hay bác lại những luận điểm của Phan Ngọc, người đọc phải vận não, phải đối sánh... nghĩa là phải tiếp tục hành trình đối thoại, hành trình “giải mã, tự tìm kết luận trong một cuộc đua tài trí tuệ” (mượn chữ dùng của tác giả - tr. 148). Người ta có thể tìm thấy một con đường hoàn toàn khác ông trong cuộc đua tài đó.
Tôi tạm hình dung về Phan Ngọc là vậy, có thể đúng, có thể sai nhưng mục đích chính là để dễ tiếp cận cuốn sách.

Công trình “Thử xét văn hóa - văn học bằng ngôn ngữ học” dày 516 trang, được NXB Thanh Niên ấn hành vào tháng 7 năm 2000, gồm có tất cả 16 chương với nhiều lĩnh vực khác nhau. Mục đích chính của nó như lời của tác giả “trình bày những suy nghĩ của tôi về mối quan hệ giữa văn học và văn hóa Việt Nam(tr. 7). Để tiện cho việc theo dõi, tôi xin sắp xếp lại các chương theo các phần sau:
Phần 1 : Gồm các chương I, IV, XIII, XV, XVI: Bàn về văn hóa.
Ở chương I “Truyền thống văn hóa và cách xây dựng văn hóa dân tộc”, sau khi nêu cách nhìn hiện đại về truyền thống văn hóa của UNESCO, Phan Ngọc đã đi thẳng vào những vấn đề của văn hóa Việt Nam và chỉ ra rằng “văn hóa Việt Nam là văn hóa nhân cách luận” (tr.20). Nhân cách đó được thể hiện ra bên ngoài là khác nhau trong quá trình diễn biến, nhân cách đó được thể hiện thông qua các mối quan hệ (quan hệ dựa trên ứng xử tình nghĩa). Nó khác với: văn hóa Phương Tây là văn hóa cá nhân luận (Mỹ: cá nhân luận kinh tế, Pháp: các nhân luận cố khẳng định tính duy lý), văn hóa Trung Hoa là văn hóa nhân cách luận nhưng dựa trên tôn ty, văn hóa Ấn Độ, trong đó để đạt đến cái thanh thản nội tâm nó phủ định thực tại. Ông cũng đã đưa văn hóa Việt Nam vào một cái khung, gọi là “văn hóa 4F” trong đó các thành tố lần lượt là Tổ quốc - Gia đình - Thân phận - Diện mạo.
Chương IV “Văn hóa gia đình Việt Nam” là sự phát triển thành tố thứ hai trong “văn hóa Việt Nam - văn hóa 4F” ở chương 1. Cách triển khai vấn đề theo tiến trình thời gian của đời người (khi đứa trẻ ra đời - khi đứa trẻ biết đi biết nói - giáo dục gia đình - cưới hỏi - thờ cúng tổ tiên). Ở chương này, Phan Ngọc có một nhận xét đáng lưu ý: Gia đình Việt Nam là một gia đình văn hóa, xây dựng trên tôn ti (mang hình thức Trung Quốc nhưng nội dung Việt Nam).
Xuất phát điểm từ khái niệm về văn hóa: “văn hóa là một sự lựa chọn”, ở chương XVI khi trình bày về văn hóa Hy Lạp, tác giả đã cho rằng văn hóa Hy Lạp lấy thương nghiệp làm nền tảng cho sự tồn tại và phát triển. Vào thời cổ đại, văn hóa Hy Lạp có 2 tính ưu việt: một là, sự lựa chọn về tôn giáo và hai là, một ngôn ngữ chung có văn tự phiên âm triệt để đầu tiên trong lịch sử loài người. Phan Ngọc đã trình bày hàng loạt những dẫn chứng sinh động để cuối cùng chỉ ra 7 đặc điểm có tính thống nhất của văn hóa Hy Lạp. Theo tôi, có thể gộp lại thành 6 bởi hai đặc điểm thần thoại, sử thi và bi kịch có thể gộp thành một là: văn học - những thành tựu nổi trội.
Tác giả công trình cũng tán dương việc Trần Đình Hượu nghiên cứu văn học đặt trong môi trường văn hóa chung ở chương XIII. Ông chỉ ra thế mạnh của Trần Đình Hượu là “am hiểu Nho giáo trong đời sống thực tế” để từ đó mà nhìn vào tư tưởng và văn học, nhưng cũng tiếc “Một là anh (Trần Đình Hượu - N.Đ.V) chưa dựa hẳn vào khoa học Phương Tây, hai là anh chưa khái niệm hóa chu đáo các kết quả tìm tòi đã rất đúng của mình” (tr. 403).
Khi trình bày sự gặp gỡ giữa hai nền văn hóa Pháp - Việt (chương XV), Phan Ngọc đã chỉ những nguyên tắc chính của văn hóa Pháp: tính toàn nhân loại - chủ nghĩa duy lý - cá nhân và tự do cá nhân. Nó khác với những nguyên tắc của văn hóa Việt Nam: Tổ quốc - Gia đình - Thân phận - Diện mạo. Hơn nữa, người Việt Nam luôn tích cực bảo vệ nhân cách mình và cố gắng tiếp thu tinh hoa văn hóa bên ngoài trong bất cứ điều kiện nào. Cụ thể hơn, xét về mặt văn học, dù cuối thế kỷ XIX đầu XX, văn hóa Việt chúng ta phải giao lưu trong sự cưỡng bức, nhưng chúng ta đã học được những nhân tố về ngôn ngữ học, về báo chí, về tư duy lý luận... để từng bước chuyển mạch văn học và tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa.
Phần 2 : Các chương III, V, VI, IX, X, XI, XII, XIV.
Đây là những chương bàn về tác giả; tác phẩm các giai đoạn văn học cụ thể.
Ở chương V, trên cơ sở hệ thống ứng xử vật chất của Việt Nam và những đặc điểm cơ bản của văn hóa Việt Nam, Phan Ngọc đã chỉ ra “Điều độc đáo ta thấy ở Nguyễn Trãi không ở chỗ ông đã tạo ra những khái niệm mới mà chính là ở chỗ ông sử dụng những khái niệm có sẵn để tạo nên những quan hệ mới độc đáo...” (tr. 177). Từ cuộc đời và thơ văn, Phan Ngọc phân tích khá thuyết phục về những khái niệm “Hiếu”, “Trung”, “Ở ẩn”, “Dân”. Xung quanh chỗ “Hiếu”, “Trung”, trước Phan Ngọc, nhiều người đã nghĩ. Phan Ngọc mới hơn ở “Ở ẩn”, “Dân”. Chỗ “ở ẩn”, ông đối lập giữa Việt Nam với Trung Quốc và nhận xét: “Họ - các nhà nho Việt Nam (N.Đ.V) - không tham dự chính trị vì có những thắc mắc họ biết là không thể giải quyết được với chính trị hiện tại chứ không phải họ sợ đau khổ. Họ tìm một nơi ẩn náu để tránh xung đột với chính trị, ngày xưa chỗ ẩn náu ấy dứt khoát là công xã, bởi vì công xã có quyền tự trị, có khả năng che chở cho họ. Trong công xã này họ là những người tích cực nhất trong việc dạy học, chữa bệnh, viết sách để lại cho đời sau chứ không phải là độc thiện kỳ thân, cũng không tự cày lấy mà ăn như các ẩn sĩ Trung Quốc” (tr. 191 - 192). Ở khái niệm “Dân”, Phan Ngọc đã tìm ra tính thống nhất về lòng yêu thương người dân lao động vô hạn của Nguyễn Trãi, trong thơ văn lẫn trong cuộc đời thực.
Viết về nhà báo Nguyễn Ái Quốc, ngoài việc dựng lại mấy nét về chân dung như có học vấn công phu, giỏi nhiều ngoại ngữ, ... Phan Ngọc có hai đóng góp mới. Một là tìm thấy cái riêng giữa việc ký tên Hồ Chí Minh và các tên khác. “Chỉ khi nào Bác nói với tính cách một Chủ tịch tức là với cương vị không phải của nhà báo, thì Bác mới ký tên Hồ Chí Minh, còn khi đóng vai một nhà báo không bao giờ Bác ký tên này” (tr. 130). Hai là thấy được Nguyễn Ái Quốc đã hiểu và vận dụng cách viết kiểu Pháp để thu hút sự chú ý của độc giả Pháp. Một cách viết khác nhiều với kiểu Á Đông. Đòi hỏi người viết phải vừa lạnh lùng, khách quan vừa dí dỏm, phải đưa ra nhiều con số chính xác, sự kiện cụ thể, bằng chứng  dẫn xuất có thể kiểm chứng được. Phan Ngọc đưa ra nhiều dẫn chứng để chứng minh luận điểm này.
Sang đến chương bàn về Nguyễn Tuân thì quả có nhiều người cảm phục. Dù đã đọc những công trình viết về Nguyễn Tuân trước đây, kể cả công trình khá xuất sắc của Nguyễn Đăng Mạnh in ở phần đầu “Tuyển tập Nguyễn Tuân”, người ta cũng dễ tìm thấy những đóng góp của Phan Ngọc khi ông, bằng cái nhìn phong cách, đã khảo sát và chỉ ra rằng “sau Nguyễn Tuân không có bóng dáng nhà văn nước ngoài nào”; trung tâm bài viết (có lẽ dùng từ “tác phẩm” hợp hơn - N.Đ.V) của Nguyễn Tuân là đồ vật, đồ vật ấy có giá trị ở chỗ chỉ có những người đặc biệt mới hiểu được nó. “Cái nhìn kỹ thuật, mỹ hóa kỹ thuật để văn học tạo nên ở bạn đọc lòng khao khát chế tạo đồ vật hoàn mỹ, đó là giai điệu mới lôi cuốn những ai đọc văn anh” (tr. 204). Phan Ngọc cũng chỉ ra giá trị “khinh bạc” ở Nguyễn Tuân: “Cậu khinh bạc đối với mọi cái gì người ta chạy theo: tiền tài, địa vị, chức tước. Cậu khinh loại độc giả tìm ở văn học cái gì giật gân, để thỏa mãn giác quan. Nhưng ở trong văn cậu, ta thấy nguyên vẹn cái nhìn ngây thơ, khao khát tìm hiểu, lòng tôn trọng mọi giá trị đạo đức đã giúp cho dân tộc tồn tại: tình chung thủy vợ chồng, nghĩa bạn bè, lòng chân thực của những người lao động” (tr. 209).
Hướng phát hiện của Phan Ngọc về “Hoàng Trung Thông - nhà thơ của những con người nhỏ bé” là đáng lưu tâm. Chương viết về tiểu thuyết “Lõm” vận dụng nhiều cái nhìn để tiếp cận văn chương (mạnh hơn cả là cái nhìn ngôn ngữ học và văn hóa học) và có phát hiện ra vài điểm đáng lưu ý: Tiểu thuyết “Lõm” đã chứng minh được nhân cách luận cách mạng của Việt Nam đã đánh bại cá nhân luận kinh tế của Mỹ, chứng minh được tính bất đắc dĩ của cuộc chiến đấu vừa qua.
Những chương IX, X, XI, tác giả viết về các giai đoạn của văn học Việt Nam, nhìn nhận bằng những lát cắt ngang. Có thể bây giờ hơi thở “thời sự” của bài viết đã không còn nguyên giá trị nữa nhưng vẫn còn vài ý kiến, nhận xét đáng để chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn, Phan Ngọc cho rằng cần hiểu văn học Việt Nam trong tâm thức người Việt Nam, trong văn hóa Việt Nam. Cần hiểu văn học Việt Nam là nền văn học nhân cách luận, vì vậy nếu dùng cá nhân luận phương Tây để đánh giá, tìm hiểu là sai lầm (tr. 368, 370). Hay như ông nhìn nhận về sự đổi mới: “Mọi sự biến đổi, đổi mới, muốn thành công phải xuất phát từ cái bất biến, bỏ cái bất biến sẽ chẳng có đổi mới gì hết...” (tr. 378). Mấy ý kiến khác của ông về việc lãnh đạo văn nghệ cũng đáng để chúng ta lưu tâm.
Phần cuối: Các chương II, VII, VIII : bàn về thể loại văn học
Ở các chương bàn về thể loại văn học này, nhà phong cách học Phan Ngọc đã có điều kiện để thể hiện thế mạnh của mình. Bằng cách xâu chuỗi, đối chiếu văn bản một cách công phu và trên phạm vi rộng, đồng thời biết kế thừa những thành quả từ các ngành nghiên cứu khác về tín ngưỡng, phong tục, nghi lễ, khảo cổ học, dân tộc học..., ông đã chỉ ra những mô típ chính của hệ thống huyền thoại Việt - Mường nguyên thủy, tiến hành phân loại các mảng của hệ thống huyền thoại này.
Cũng vậy, ở chương VII, Phan Ngọc chỉ ra nội dung của thơ song thất lục bát, nội dung của hình thức trong cái nhìn mang tính lịch sử và hệ thống, thông qua các thao tác đối lập. Cách làm của ông khá công phu, tỉ mỉ. Ông chọn 35 tác phẩm tiêu biểu của thể thơ song thất lục bát trong một khoảng thời gian hơn 200 năm để khảo sát. Và rồi, ông chỉ ra bốn đặc điểm có tính cơ bản của thể thơ song thất lục bát là: là thơ nội tâm, bao giờ cùng thể hiện một sự đối lập, có tính chất kêu gọi, thôi thúc, tác giả đóng vai một người lữ khách. Sau đó ông trở lại phân tích cấu trúc, dựng lại quá trình hình thành, đưa ra mô hình song thất lục bát cổ điển. Phần bàn về tác giả “Chinh phụ ngâm” như một sự kiểm chứng cụ thể với lý thuyết mà ông nêu ra.
Người đọc cũng khá thích thú khi đọc chương “Vài mẹo về tiểu thuyết dài”. Chương này tác giả đi thẳng vào vấn đề “Tại sao tiểu thuyết Việt Nam lại yếu?” đồng thời chỉ ra 8 mẹo mà theo ông có thể khắc phục được (Bỏ lối phân đôi, xét con người trong cả quá trình, con người Việt Nam, biết sử dụng ngẫu nhiên, chuyển từ chê sang trách, phát huy tính hiện đại, nắm lấy cái bất biến, xây dựng một nền tiểu thuyết tầm cỡ thế giới). Chẳng phải các “mẹo” ông đưa ra đều đúng (Thử xem, “mẹo” thứ tám đã bao trùm các “mẹo” còn lại rồi vậy) nhưng phải công nhận nó có nhiều gợi mở. Ai cũng biết, từ lý thuyết đến sáng tác là cả một quá trình. Nhưng biết nhiều để mà lựa chọn thì thường là hay. Hy vọng các nhà tiểu thuyết trẻ cũng nghĩ vậy. Cái lạ ở việc chỉ ra các “mẹo” là Phan Ngọc không đứng ở góc độ nhà nghiên cứu để nói về tiểu thuyết. Ông biết mình không thể đi xa hơn Phạm Quỳnh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Văn Trung, Phan Cự Đệ. Ông cũng không đứng ở góc độ nhà văn. Làm sao qua được Nhất Linh, Thạch Lam, Vũ Bằng. Ông đã đứng ở góc độ người đọc, người tiếp nhận và bằng các kinh nghiệm đọc, tiếp xúc nhiều của mình mà tâm sự, gởi trao đổi với các nhà tiểu thuyết trẻ. Tấm lòng chân thành và đầy nhiệt huyết như thế với tiền đồ văn học nước nhà là rất đáng trân trọng.

Theo chỗ tôi biết, mấy năm qua sách bàn về văn hóa xuất bản khá nhiều (riêng cùng nhan đềCơ sở văn hóa Việt Nam” đã có tới 3 cuốn của Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng, Lê Văn Chưởng). Cũng có cuốn hay, cũng có cuốn dở, âu đó là sự thường. Nhưng tôi tin cuốn sách này của Phan Ngọc (cùng với hai cuốn khác nữa cũng bàn về văn hóa là: “Bản sắc văn hóa Việt Nam” vàMột cách tiếp cận văn hóa) sẽ có một vị trí riêng trong lòng độc giả. Phan Ngọc đã dấn thân, mải miết đi tìm một con đường mới trong việc tiếp cận văn hóa, văn học. Hành trình ông đi, nhiều lúc cô độc. Nhưng hình như sau ông, một lớp người mới, trẻ hơn, đang cất bước.
Huế, 5/10/2000

NGUYỄN ĐÌNH VĨNH
(nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.