Đọc “Thử xét văn hóa - văn học bằng ngôn ngữ học” của giáo sư Phan Ngọc

09:45 03/06/2008
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

Trong nghiên cứu phê bình, Phan Ngọc là người có cá tính rõ nét. Ông thường tự nói về mình: “Tôi là thằng duy lý, nhìn nghệ thuật qua một hệ thống thao tác” (tr. 216) tự nhận là người có tính “gàn” (tr. 394). Ông biết mình cực đoan nhưng “nghệ thuật là cực đoan, không phải là nơi dĩ hòa vi quý” (tr. 227) biết có sai lầm “Nhưng khoa học tiến lên qua những sai lầm” (tr. 267). Với tư cách là chủ thể nghiên cứu, Phan Ngọc thích dùng chữ “Tôi” hơn là “Ta”, “Chúng ta”, “Chúng tôi”, “Người viết”. Văn phong nghiên cứu của Phan Ngọc không theo lối quy củ mà chịu sự bó buộc theo kiểu của riêng ông. Những hồi ức, liên tưởng, những mối quan hệ đời thường gắn sát với cá nhân ông cùng bao trải nghiệm thực tế trong đời được ông vận dụng để minh chứng, biện thuyết thêm cho những vấn đề về học thuật. Cũng vậy, trong các bài viết khi thì ông tự nhận mình là nhà Hán học, khi thì là nhà văn hóa học khi thì nhà thao tác luận... Theo chúng tôi, cách nhìn nhận như vậy là phù hợp với xuất phát điểm trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu.
Mang khát vọng tìm hiểu cội nguồn văn hóa cha ông và chỉ ra cái hay cái dở ở các nền văn hóa bên ngoài, ông luôn tìm cách cắt nghĩa tại sao mà nó (đối tượng được đề cập) lại như thế này chứ không phải như thế khác. Ông không đồng tình với lối nghiên cứu lấy Châu Âu hay Trung Quốc làm trung tâm để nghiên cứu về văn hóa - văn học Việt Nam và ngược lại. Bằng con đường của riêng mình với xuất phát điểm “văn hóa là một sự lựa chọn” và đặt đối tượng trong tính đối lập, ông đã chỉ ra những nét riêng của những nhà văn hóa, những giá trị mà các nền văn hóa văn học tiêu biểu đóng góp vào cái kho chung của văn hóa nhân loại. Ông thường lặp đi lặp lại luận điểm: nghiên cứu văn hóa phải đặt trong môi trường văn hóa chung, “chỗ yếu của nghiên cứu văn học chính là chỗ xét văn học tách khỏi mọi hình thức nghệ thuật khác” (tr. 280) 
Trong nghiên cứu, Phan Ngọc có nhiều cực đoan mhư đã đề cập. Tiếp đây tôi xin nói rõ hơn. Vì cực đoan mà ta bắt gặp không ít những cụm từ “độc nhất vô nhị”, “chẳng thua kém ai”, “sáng tạo đặc biệt”, “không thể tìm thấy ở đâu khác” “chỉ có ở Việt Nam”. Sự cực đoan ấy do từ hai phía, do từ cá tính của ông và do cách nhìn phong cách học của ông mang lại. Cái nhìn phong cách học luôn đi tìm những nét riêng biệt, nó có thể dẫn đến cực đoan một khi người viết không đủ điều kiện đối chiếu, kiểm chứng, thống kê. Điều hay là sự cực đoan của ông được điều dẫn bởi lý trí, bởi những câu văn giàu tính đối thoại, gợi mở. Có bạn văn nói cùng tôi, khi đọc tác phẩm của Phan Ngọc, lòng không thể bình yên được. Tôi cho đó là một ý kiến chí lý. Đồng ý hay bác lại những luận điểm của Phan Ngọc, người đọc phải vận não, phải đối sánh... nghĩa là phải tiếp tục hành trình đối thoại, hành trình “giải mã, tự tìm kết luận trong một cuộc đua tài trí tuệ” (mượn chữ dùng của tác giả - tr. 148). Người ta có thể tìm thấy một con đường hoàn toàn khác ông trong cuộc đua tài đó.
Tôi tạm hình dung về Phan Ngọc là vậy, có thể đúng, có thể sai nhưng mục đích chính là để dễ tiếp cận cuốn sách.

Công trình “Thử xét văn hóa - văn học bằng ngôn ngữ học” dày 516 trang, được NXB Thanh Niên ấn hành vào tháng 7 năm 2000, gồm có tất cả 16 chương với nhiều lĩnh vực khác nhau. Mục đích chính của nó như lời của tác giả “trình bày những suy nghĩ của tôi về mối quan hệ giữa văn học và văn hóa Việt Nam(tr. 7). Để tiện cho việc theo dõi, tôi xin sắp xếp lại các chương theo các phần sau:
Phần 1 : Gồm các chương I, IV, XIII, XV, XVI: Bàn về văn hóa.
Ở chương I “Truyền thống văn hóa và cách xây dựng văn hóa dân tộc”, sau khi nêu cách nhìn hiện đại về truyền thống văn hóa của UNESCO, Phan Ngọc đã đi thẳng vào những vấn đề của văn hóa Việt Nam và chỉ ra rằng “văn hóa Việt Nam là văn hóa nhân cách luận” (tr.20). Nhân cách đó được thể hiện ra bên ngoài là khác nhau trong quá trình diễn biến, nhân cách đó được thể hiện thông qua các mối quan hệ (quan hệ dựa trên ứng xử tình nghĩa). Nó khác với: văn hóa Phương Tây là văn hóa cá nhân luận (Mỹ: cá nhân luận kinh tế, Pháp: các nhân luận cố khẳng định tính duy lý), văn hóa Trung Hoa là văn hóa nhân cách luận nhưng dựa trên tôn ty, văn hóa Ấn Độ, trong đó để đạt đến cái thanh thản nội tâm nó phủ định thực tại. Ông cũng đã đưa văn hóa Việt Nam vào một cái khung, gọi là “văn hóa 4F” trong đó các thành tố lần lượt là Tổ quốc - Gia đình - Thân phận - Diện mạo.
Chương IV “Văn hóa gia đình Việt Nam” là sự phát triển thành tố thứ hai trong “văn hóa Việt Nam - văn hóa 4F” ở chương 1. Cách triển khai vấn đề theo tiến trình thời gian của đời người (khi đứa trẻ ra đời - khi đứa trẻ biết đi biết nói - giáo dục gia đình - cưới hỏi - thờ cúng tổ tiên). Ở chương này, Phan Ngọc có một nhận xét đáng lưu ý: Gia đình Việt Nam là một gia đình văn hóa, xây dựng trên tôn ti (mang hình thức Trung Quốc nhưng nội dung Việt Nam).
Xuất phát điểm từ khái niệm về văn hóa: “văn hóa là một sự lựa chọn”, ở chương XVI khi trình bày về văn hóa Hy Lạp, tác giả đã cho rằng văn hóa Hy Lạp lấy thương nghiệp làm nền tảng cho sự tồn tại và phát triển. Vào thời cổ đại, văn hóa Hy Lạp có 2 tính ưu việt: một là, sự lựa chọn về tôn giáo và hai là, một ngôn ngữ chung có văn tự phiên âm triệt để đầu tiên trong lịch sử loài người. Phan Ngọc đã trình bày hàng loạt những dẫn chứng sinh động để cuối cùng chỉ ra 7 đặc điểm có tính thống nhất của văn hóa Hy Lạp. Theo tôi, có thể gộp lại thành 6 bởi hai đặc điểm thần thoại, sử thi và bi kịch có thể gộp thành một là: văn học - những thành tựu nổi trội.
Tác giả công trình cũng tán dương việc Trần Đình Hượu nghiên cứu văn học đặt trong môi trường văn hóa chung ở chương XIII. Ông chỉ ra thế mạnh của Trần Đình Hượu là “am hiểu Nho giáo trong đời sống thực tế” để từ đó mà nhìn vào tư tưởng và văn học, nhưng cũng tiếc “Một là anh (Trần Đình Hượu - N.Đ.V) chưa dựa hẳn vào khoa học Phương Tây, hai là anh chưa khái niệm hóa chu đáo các kết quả tìm tòi đã rất đúng của mình” (tr. 403).
Khi trình bày sự gặp gỡ giữa hai nền văn hóa Pháp - Việt (chương XV), Phan Ngọc đã chỉ những nguyên tắc chính của văn hóa Pháp: tính toàn nhân loại - chủ nghĩa duy lý - cá nhân và tự do cá nhân. Nó khác với những nguyên tắc của văn hóa Việt Nam: Tổ quốc - Gia đình - Thân phận - Diện mạo. Hơn nữa, người Việt Nam luôn tích cực bảo vệ nhân cách mình và cố gắng tiếp thu tinh hoa văn hóa bên ngoài trong bất cứ điều kiện nào. Cụ thể hơn, xét về mặt văn học, dù cuối thế kỷ XIX đầu XX, văn hóa Việt chúng ta phải giao lưu trong sự cưỡng bức, nhưng chúng ta đã học được những nhân tố về ngôn ngữ học, về báo chí, về tư duy lý luận... để từng bước chuyển mạch văn học và tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa.
Phần 2 : Các chương III, V, VI, IX, X, XI, XII, XIV.
Đây là những chương bàn về tác giả; tác phẩm các giai đoạn văn học cụ thể.
Ở chương V, trên cơ sở hệ thống ứng xử vật chất của Việt Nam và những đặc điểm cơ bản của văn hóa Việt Nam, Phan Ngọc đã chỉ ra “Điều độc đáo ta thấy ở Nguyễn Trãi không ở chỗ ông đã tạo ra những khái niệm mới mà chính là ở chỗ ông sử dụng những khái niệm có sẵn để tạo nên những quan hệ mới độc đáo...” (tr. 177). Từ cuộc đời và thơ văn, Phan Ngọc phân tích khá thuyết phục về những khái niệm “Hiếu”, “Trung”, “Ở ẩn”, “Dân”. Xung quanh chỗ “Hiếu”, “Trung”, trước Phan Ngọc, nhiều người đã nghĩ. Phan Ngọc mới hơn ở “Ở ẩn”, “Dân”. Chỗ “ở ẩn”, ông đối lập giữa Việt Nam với Trung Quốc và nhận xét: “Họ - các nhà nho Việt Nam (N.Đ.V) - không tham dự chính trị vì có những thắc mắc họ biết là không thể giải quyết được với chính trị hiện tại chứ không phải họ sợ đau khổ. Họ tìm một nơi ẩn náu để tránh xung đột với chính trị, ngày xưa chỗ ẩn náu ấy dứt khoát là công xã, bởi vì công xã có quyền tự trị, có khả năng che chở cho họ. Trong công xã này họ là những người tích cực nhất trong việc dạy học, chữa bệnh, viết sách để lại cho đời sau chứ không phải là độc thiện kỳ thân, cũng không tự cày lấy mà ăn như các ẩn sĩ Trung Quốc” (tr. 191 - 192). Ở khái niệm “Dân”, Phan Ngọc đã tìm ra tính thống nhất về lòng yêu thương người dân lao động vô hạn của Nguyễn Trãi, trong thơ văn lẫn trong cuộc đời thực.
Viết về nhà báo Nguyễn Ái Quốc, ngoài việc dựng lại mấy nét về chân dung như có học vấn công phu, giỏi nhiều ngoại ngữ, ... Phan Ngọc có hai đóng góp mới. Một là tìm thấy cái riêng giữa việc ký tên Hồ Chí Minh và các tên khác. “Chỉ khi nào Bác nói với tính cách một Chủ tịch tức là với cương vị không phải của nhà báo, thì Bác mới ký tên Hồ Chí Minh, còn khi đóng vai một nhà báo không bao giờ Bác ký tên này” (tr. 130). Hai là thấy được Nguyễn Ái Quốc đã hiểu và vận dụng cách viết kiểu Pháp để thu hút sự chú ý của độc giả Pháp. Một cách viết khác nhiều với kiểu Á Đông. Đòi hỏi người viết phải vừa lạnh lùng, khách quan vừa dí dỏm, phải đưa ra nhiều con số chính xác, sự kiện cụ thể, bằng chứng  dẫn xuất có thể kiểm chứng được. Phan Ngọc đưa ra nhiều dẫn chứng để chứng minh luận điểm này.
Sang đến chương bàn về Nguyễn Tuân thì quả có nhiều người cảm phục. Dù đã đọc những công trình viết về Nguyễn Tuân trước đây, kể cả công trình khá xuất sắc của Nguyễn Đăng Mạnh in ở phần đầu “Tuyển tập Nguyễn Tuân”, người ta cũng dễ tìm thấy những đóng góp của Phan Ngọc khi ông, bằng cái nhìn phong cách, đã khảo sát và chỉ ra rằng “sau Nguyễn Tuân không có bóng dáng nhà văn nước ngoài nào”; trung tâm bài viết (có lẽ dùng từ “tác phẩm” hợp hơn - N.Đ.V) của Nguyễn Tuân là đồ vật, đồ vật ấy có giá trị ở chỗ chỉ có những người đặc biệt mới hiểu được nó. “Cái nhìn kỹ thuật, mỹ hóa kỹ thuật để văn học tạo nên ở bạn đọc lòng khao khát chế tạo đồ vật hoàn mỹ, đó là giai điệu mới lôi cuốn những ai đọc văn anh” (tr. 204). Phan Ngọc cũng chỉ ra giá trị “khinh bạc” ở Nguyễn Tuân: “Cậu khinh bạc đối với mọi cái gì người ta chạy theo: tiền tài, địa vị, chức tước. Cậu khinh loại độc giả tìm ở văn học cái gì giật gân, để thỏa mãn giác quan. Nhưng ở trong văn cậu, ta thấy nguyên vẹn cái nhìn ngây thơ, khao khát tìm hiểu, lòng tôn trọng mọi giá trị đạo đức đã giúp cho dân tộc tồn tại: tình chung thủy vợ chồng, nghĩa bạn bè, lòng chân thực của những người lao động” (tr. 209).
Hướng phát hiện của Phan Ngọc về “Hoàng Trung Thông - nhà thơ của những con người nhỏ bé” là đáng lưu tâm. Chương viết về tiểu thuyết “Lõm” vận dụng nhiều cái nhìn để tiếp cận văn chương (mạnh hơn cả là cái nhìn ngôn ngữ học và văn hóa học) và có phát hiện ra vài điểm đáng lưu ý: Tiểu thuyết “Lõm” đã chứng minh được nhân cách luận cách mạng của Việt Nam đã đánh bại cá nhân luận kinh tế của Mỹ, chứng minh được tính bất đắc dĩ của cuộc chiến đấu vừa qua.
Những chương IX, X, XI, tác giả viết về các giai đoạn của văn học Việt Nam, nhìn nhận bằng những lát cắt ngang. Có thể bây giờ hơi thở “thời sự” của bài viết đã không còn nguyên giá trị nữa nhưng vẫn còn vài ý kiến, nhận xét đáng để chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn, Phan Ngọc cho rằng cần hiểu văn học Việt Nam trong tâm thức người Việt Nam, trong văn hóa Việt Nam. Cần hiểu văn học Việt Nam là nền văn học nhân cách luận, vì vậy nếu dùng cá nhân luận phương Tây để đánh giá, tìm hiểu là sai lầm (tr. 368, 370). Hay như ông nhìn nhận về sự đổi mới: “Mọi sự biến đổi, đổi mới, muốn thành công phải xuất phát từ cái bất biến, bỏ cái bất biến sẽ chẳng có đổi mới gì hết...” (tr. 378). Mấy ý kiến khác của ông về việc lãnh đạo văn nghệ cũng đáng để chúng ta lưu tâm.
Phần cuối: Các chương II, VII, VIII : bàn về thể loại văn học
Ở các chương bàn về thể loại văn học này, nhà phong cách học Phan Ngọc đã có điều kiện để thể hiện thế mạnh của mình. Bằng cách xâu chuỗi, đối chiếu văn bản một cách công phu và trên phạm vi rộng, đồng thời biết kế thừa những thành quả từ các ngành nghiên cứu khác về tín ngưỡng, phong tục, nghi lễ, khảo cổ học, dân tộc học..., ông đã chỉ ra những mô típ chính của hệ thống huyền thoại Việt - Mường nguyên thủy, tiến hành phân loại các mảng của hệ thống huyền thoại này.
Cũng vậy, ở chương VII, Phan Ngọc chỉ ra nội dung của thơ song thất lục bát, nội dung của hình thức trong cái nhìn mang tính lịch sử và hệ thống, thông qua các thao tác đối lập. Cách làm của ông khá công phu, tỉ mỉ. Ông chọn 35 tác phẩm tiêu biểu của thể thơ song thất lục bát trong một khoảng thời gian hơn 200 năm để khảo sát. Và rồi, ông chỉ ra bốn đặc điểm có tính cơ bản của thể thơ song thất lục bát là: là thơ nội tâm, bao giờ cùng thể hiện một sự đối lập, có tính chất kêu gọi, thôi thúc, tác giả đóng vai một người lữ khách. Sau đó ông trở lại phân tích cấu trúc, dựng lại quá trình hình thành, đưa ra mô hình song thất lục bát cổ điển. Phần bàn về tác giả “Chinh phụ ngâm” như một sự kiểm chứng cụ thể với lý thuyết mà ông nêu ra.
Người đọc cũng khá thích thú khi đọc chương “Vài mẹo về tiểu thuyết dài”. Chương này tác giả đi thẳng vào vấn đề “Tại sao tiểu thuyết Việt Nam lại yếu?” đồng thời chỉ ra 8 mẹo mà theo ông có thể khắc phục được (Bỏ lối phân đôi, xét con người trong cả quá trình, con người Việt Nam, biết sử dụng ngẫu nhiên, chuyển từ chê sang trách, phát huy tính hiện đại, nắm lấy cái bất biến, xây dựng một nền tiểu thuyết tầm cỡ thế giới). Chẳng phải các “mẹo” ông đưa ra đều đúng (Thử xem, “mẹo” thứ tám đã bao trùm các “mẹo” còn lại rồi vậy) nhưng phải công nhận nó có nhiều gợi mở. Ai cũng biết, từ lý thuyết đến sáng tác là cả một quá trình. Nhưng biết nhiều để mà lựa chọn thì thường là hay. Hy vọng các nhà tiểu thuyết trẻ cũng nghĩ vậy. Cái lạ ở việc chỉ ra các “mẹo” là Phan Ngọc không đứng ở góc độ nhà nghiên cứu để nói về tiểu thuyết. Ông biết mình không thể đi xa hơn Phạm Quỳnh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Văn Trung, Phan Cự Đệ. Ông cũng không đứng ở góc độ nhà văn. Làm sao qua được Nhất Linh, Thạch Lam, Vũ Bằng. Ông đã đứng ở góc độ người đọc, người tiếp nhận và bằng các kinh nghiệm đọc, tiếp xúc nhiều của mình mà tâm sự, gởi trao đổi với các nhà tiểu thuyết trẻ. Tấm lòng chân thành và đầy nhiệt huyết như thế với tiền đồ văn học nước nhà là rất đáng trân trọng.

Theo chỗ tôi biết, mấy năm qua sách bàn về văn hóa xuất bản khá nhiều (riêng cùng nhan đềCơ sở văn hóa Việt Nam” đã có tới 3 cuốn của Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng, Lê Văn Chưởng). Cũng có cuốn hay, cũng có cuốn dở, âu đó là sự thường. Nhưng tôi tin cuốn sách này của Phan Ngọc (cùng với hai cuốn khác nữa cũng bàn về văn hóa là: “Bản sắc văn hóa Việt Nam” vàMột cách tiếp cận văn hóa) sẽ có một vị trí riêng trong lòng độc giả. Phan Ngọc đã dấn thân, mải miết đi tìm một con đường mới trong việc tiếp cận văn hóa, văn học. Hành trình ông đi, nhiều lúc cô độc. Nhưng hình như sau ông, một lớp người mới, trẻ hơn, đang cất bước.
Huế, 5/10/2000

NGUYỄN ĐÌNH VĨNH
(nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.