Cửa Lò (Nghệ An) được khai phá từ thế kỷ 15. Từ những làng chài nghèo ven biển, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vùng đất này đã trở thành đô thị du lịch biển đầu tiên của cả nước với những bãi tắm lý tưởng.
Đền thờ Thái úy - Đô đốc Nguyễn Sư Hồi, người khai phá vùng đất Cửa Lò - Ảnh: K.Hoan
Giữa thế kỷ 15, Thái úy Nguyễn Sư Hồi tìm đến vùng Cửa Xá lập đại bản doanh, giúp cư dân khai phá vùng đất mới. Sức người đã biến vùng đất mặn chát nước biển này thành những ngôi làng trù phú, khởi thủy cho địa danh Cửa Lò ngày nay.
Chiêu dân, lập làng
Sử liệu ghi: Khoảng năm 1469, Thái úy - Đô đốc Nguyễn Sư Hồi (con trai trưởng của Thái sư Cương Quốc công Nguyễn Xí) được giao chỉ huy lực lượng thủy quân làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển phía nam quốc gia Đại Việt, gồm 12 cửa lạch kéo dài từ cửa biển Sầm Sơn (Thanh Hóa) vào đến Cửa Tùng (Quảng Trị).
Ông chọn vùng Cửa Xá cạnh làng Thượng Xá làm đại bản doanh. Cửa Xá là nơi con sông Cấm đổ ra biển. Bao bọc Cửa Xá là núi, như những bức tường thành tự nhiên che chắn cho vùng đất này. Tại đây, Nguyễn Sư Hồi bắt tay vào công việc tuần tra, xây dựng tuyến phòng thủ ven biển dài từ mũi Gươm đến đồn tiền tiêu. Ông huy động binh lính và cư dân trong vùng dùng thuyền chở đá từ dãy núi Hoàng Lao để xây dựng thành con đê chạy dọc đôi bờ sông Cấm ra tận mé biển. Tuyến phòng thủ này không chỉ có tác dụng ngăn sự xâm thực của nước biển mà còn là bức tường thành giúp cho sự phối hợp giữa thủy binh và bộ binh tốt hơn khi có giặc xâm phạm.
Trải qua hơn 500 năm, dấu tích của kè đá này nay vẫn còn dọc hai bờ sông qua các xã, phường của H.Nghi Lộc và TX.Cửa Lò. Lịch sử địa phương chép rằng trong thời gian trấn trị tại Cửa Xá, Thái úy Nguyễn Sư Hồi cũng rất quan tâm phát triển kinh tế, chiêu tập dân cư, dùng các tù binh để khai phát đất đai. Ông đã truyền dạy cho dân chúng cách làm nông nghiệp và ngư nghiệp. Nghề chài lưới, đánh bắt hải sản sau đó trở thành nghề mang lại sự phồn thịnh cho vùng đất này nhờ nguồn hải sản ở đây rất dồi dào. Để có phương tiện ra khơi, Nguyễn Sư Hồi cho tuyển người đóng tàu thuyền giỏi từ ngoài bắc vào để phục vụ sửa chữa và đóng mới tàu thuyền cho hạm đội. Nghề đóng tàu thuyền vẫn còn tồn tại và thành làng nghề nổi tiếng cho đến nay tại làng Vạn Lộc và Trung Kiên.
Hơn 30 năm trấn trị tại Cửa Xá, Thái úy Nguyễn Sư Hồi đã dồn hết tâm sức để xây dựng, phát triển vùng đất Cửa Xá, biến mảnh đất hoang thành một địa bàn dân cư sầm uất, có tên gọi là làng Hải Ngung. Vào khoảng năm 1493, làng Hải Ngung đổi thành làng Hải Giang, về sau đổi thành làng Vạn Lộc và duy trì tên gọi này cho tới năm 1945. Vạn Lộc được đặt với ý nghĩa “muôn lộc đổ về đây”.
Sau khi mất, Thái úy Nguyễn Sư Hồi được người dân địa phương lập đền thờ để thờ phụng và tôn ông là thần hoàng của làng. Nay đền thờ của ông nằm bên con sông Cấm thuộc P.Nghi Tân, TX.Cửa Lò. Từ xưa đến nay, cứ 3 năm 1 lần, đến các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, từ ngày mùng 8 đến hết ngày 12 tháng giêng, người dân địa phương lại tổ chức lễ hội với nhiều hoạt động tế lễ, văn hóa, thể thao để tưởng nhớ đến ông. Không những thế, vùng đất Cửa Lò sau khi được khai phá từng sản sinh ra nhiều văn quan, võ tướng và nho y nổi tiếng. Cư dân nơi đây từng tự hào Cửa Lò là nơi “Văn giành đỉnh bút, võ chiếm đề đao, nền y học chưa nơi nào sánh kịp”.
Khai phá du lịch
Theo các thư tịch cổ và các tài liệu địa chất, vùng đất Cửa Lò được hình thành bởi sự bồi tụ của cát biển qua nhiều đợt biển tiến, biển lùi trong lịch sử. Trên những dải cát còn mặn chát nước biển, từ thế kỷ 15 đã hình thành nên các làng xã với cư dân dần đông đúc. Tên gọi Cửa Lò gây nhiều tranh cãi giữa các nhà địa danh học. Cuốn Cửa Lò - linh khí một vùng sông nước (Nhà xuất bản Nghệ An 2014) cho biết có một số học giả giải thích Cửa Lò xuất xứ là Kuala (từ gốc vùng Nam Đảo), có nghĩa là nơi con sông đổ ra biển. Tuy nhiên, theo các bậc túc nho và những người am hiểu về lịch sử vùng đất này, tên gọi Cửa Lò là hệ quả của sự biến âm Kẻ Lò mà thành. Bởi trước khi hình thành làng, xã, vùng duyên hải Nghi Lộc đã từng tồn tại nhiều vùng đất gọi là kẻ, như: Kẻ Áng (xã Nghi Quang ngày nay), Kẻ Đụn (xã Nghi Tiến)...
Đến năm 1907, sau khi phát hiện ra bãi cát thoải, độ mặn nước biển phù hợp, người Pháp đã cho xây dựng các nhà nghỉ ven biển Cửa Lò, đánh dấu bước ngoặt khai phá du lịch vùng đất này. Sau năm 1954, có thêm nhà nghỉ Công đoàn 3 tầng do Công đoàn tỉnh Nghệ An trực tiếp quản lý. Hồi đó, người dân địa phương gọi là “nhà mát”. Ngôi nhà này là biểu tượng của du lịch Cửa Lò vào những năm 60 của thế kỷ trước.
Cửa Lò được đánh giá là một trong những bãi biển đẹp, nước biển sạch và độ mặt phù hợp, bãi cát mịn, dài, thoải, lưu trường dòng chảy phân bố tương đối đồng đều, ít xuất hiện giếng xoáy gây nguy hiểm. Tuy nhiên, Cửa Lò vẫn là “nàng công chúa ngủ trong rừng”. Sau năm 1975, Cửa Lò vẫn là những bãi cát hoang sơ với những rặng phi lao vi vút gió.
Theo Khánh Hoan – TN
TRẦN CHINH VŨChỉ mấy ngày nữa là hết năm, vậy mà tôi vẫn chưa rời khỏi đất Tây Nguyên. Cái vùng đất đến lạ, tới được đã khó, đến lúc về lại cứ lần lữa, hết hẹn này qua hẹn khác.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Bút kýMỗi dân tộc đều có một quan niệm về sắc đẹp riêng, ví dụ tranh Tố Nữ là quan niệm về sắc đẹp của người Việt một thời nào. Tôi đi Tuyên Quang trong một tour du lịch mà tôi gọi là tour Lương Tâm, nghĩa là đến những nơi mà bất cứ ai là người Việt đều không thể không đến.
HỒ VĨNH(Thấp thoáng cố đô)
NGUYỄN VĂN DŨNG Bút kýMùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy một chầu du ngoạn Lý Sơn.
NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.
ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện ra nhiều di tích quan trọng của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo tại Cát Tiên, ở cả Bắc Cát Tiên lẫn Nam Cát Tiên trên vùng Đồng Nai Thượng.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ghi chépChúng tôi rời thị xã Điện Biên đã nhiều ngày và những hoạt động sôi nổi kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã qua, nhưng những ấn tượng trong thời gian ở Điện Biên thì mãi còn đậm nét trong tôi.
VĂN HÁCHĐã bốn thập kỷ qua, nhiều thế hệ học sinh, nhiều thế hệ người Việt ta và cũng nhiều người trên thế giới đã từng quen, từng biết câu thơ:Mường Thanh, Hồng Cúm Him LamHoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng…
NGUYỄN HỮU NHÀNTương truyền đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Tản Viên) là người làng Yên Sơn. Chồng bà là người vùng biển. Họ dựng nhà, sống ở ngay dưới chân núi Thụ Tinh ngày nay gọi chệch là núi Thu Tinh. Một lần bà đi qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào hòn đá to rồi về thụ thai ba năm mới sinh nở. Vì thế khi đang bụng mang dạ chửa bà đã bị dân làng đồn đại tiếng xấu về sự chửa hoang. Chồng bà nghi ngờ rồi bỏ vợ, về quê ở miền biển sinh sống.
DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.
YÊN CHÂUQuảng Điền là một trong những huyện bị lũ lụt nặng nhất Thừa Thiên.Có thể kể ra đây mấy con số: 42 người chết, 13.000 tấn lúa bị thối, 3078 con trâu bò bị chết, 34 cây số đê bị vỡ.
NGUYỄN THỊ SỬU Cư trú trên dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị của lãnh thổ nước ta, dân số Ta-Ôi chỉ 34.960 người (theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999) và ít được biết đến. Nhưng khi đi sâu vào đời sống văn hóa, chúng ta mới thấy sự kỳ thú, kỳ vĩ của dân tộc này. Với tư cách là một thành viên bản địa của cộng đồng tộc người Ta-Ôi và sau một chuyến khảo sát điền dã khắp 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện ra một nét văn hóa đặc sắc có tính truyền thống của dân tộc Ta-Ôi. Đó là Trách nhiệm cộng đồng.
HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.
NGÔ MINH Ghi chép
NGUYỄN THANH TÚ Bút ký Bến phà Xuân Sơn nằm trên dòng sông Son thơ mộng ở đoạn thượng nguồn. Từ đây đi bằng thuyền máy khoảng nửa giờ đồng hồ ngược lên phía tây sẽ đến động Phong Nha. Anh Lê Chiêu Nguyên cán bộ hướng dẫn của Trung tâm du lịch văn hóa sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng đã nói như vậy khi đoàn chúng tôi chuẩn bị lên thuyền làm cuộc hành trình tới hang động mà UNESCO vừa công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.
NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.
NGUYỄN QUANG HÀ Ghi chépNói đến Vĩnh Linh, không ai không nhớ hai câu thơ đầy hãnh diện của Bác Hồ tặng cho mảnh đất này: “Đánh cho giặc Mỹ tan tành Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”
…Chưa bao giờ các văn nghệ sĩ Huế lại tranh thủ “đi” như ở Trại viết này. Không chỉ “săn” cảnh đẹp, người đẹp, các anh còn chú trọng hơn những nét đẹp trong lao động sản xuất của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu…
NGUYỄN XUÂN HOÀNG Bút ký...Bảy trăm năm trở về với Đại Việt, lịch sử đèo Hải Vân đã dày lên cùng với lịch sử nước Việt. Đó là những trang sách được viết bằng mồ hôi, máu và số phận của cả một dân tộc. Ngày Huyền Trân đi qua cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay), nàng đã nhìn thấy gì nếu không phải là con ngựa trắng tung bờm lao ra biển đông, và đèo Hải Vân cao mịt mùng đã lặng lẽ đưa một Chiêu Quân vì nước non ngàn dặm ra đi. Cuộc vu qui nhiều nước mắt ấy theo tôi là trang sử đầu tiên của đèo Hải Vân. Để sau đó nơi hiểm trở này đã tiễn chân Cao Bá Quát, cái ngày ông đi giang hồ rèn chí, con chim hồng quì chân uống nước sông Trà mà vọng về phương Bắc lòng tha thiết nhớ quê...
NGUYỄN VĂN VINH Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui