Cửa Lò đô thị du lịch biển: Cuộc chinh phục những bãi cát hoang

14:25 10/04/2017

Cửa Lò (Nghệ An) được khai phá từ thế kỷ 15. Từ những làng chài nghèo ven biển, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vùng đất này đã trở thành đô thị du lịch biển đầu tiên của cả nước với những bãi tắm lý tưởng.

Đền thờ Thái úy - Đô đốc Nguyễn Sư Hồi, người khai phá vùng đất Cửa Lò - Ảnh: K.Hoan

Giữa thế kỷ 15, Thái úy Nguyễn Sư Hồi tìm đến vùng Cửa Xá lập đại bản doanh, giúp cư dân khai phá vùng đất mới. Sức người đã biến vùng đất mặn chát nước biển này thành những ngôi làng trù phú, khởi thủy cho địa danh Cửa Lò ngày nay.

Chiêu dân, lập làng

Sử liệu ghi: Khoảng năm 1469, Thái úy - Đô đốc Nguyễn Sư Hồi (con trai trưởng của Thái sư Cương Quốc công Nguyễn Xí) được giao chỉ huy lực lượng thủy quân làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển phía nam quốc gia Đại Việt, gồm 12 cửa lạch kéo dài từ cửa biển Sầm Sơn (Thanh Hóa) vào đến Cửa Tùng (Quảng Trị).

Ông chọn vùng Cửa Xá cạnh làng Thượng Xá làm đại bản doanh. Cửa Xá là nơi con sông Cấm đổ ra biển. Bao bọc Cửa Xá là núi, như những bức tường thành tự nhiên che chắn cho vùng đất này. Tại đây, Nguyễn Sư Hồi bắt tay vào công việc tuần tra, xây dựng tuyến phòng thủ ven biển dài từ mũi Gươm đến đồn tiền tiêu. Ông huy động binh lính và cư dân trong vùng dùng thuyền chở đá từ dãy núi Hoàng Lao để xây dựng thành con đê chạy dọc đôi bờ sông Cấm ra tận mé biển. Tuyến phòng thủ này không chỉ có tác dụng ngăn sự xâm thực của nước biển mà còn là bức tường thành giúp cho sự phối hợp giữa thủy binh và bộ binh tốt hơn khi có giặc xâm phạm.

Trải qua hơn 500 năm, dấu tích của kè đá này nay vẫn còn dọc hai bờ sông qua các xã, phường của H.Nghi Lộc và TX.Cửa Lò. Lịch sử địa phương chép rằng trong thời gian trấn trị tại Cửa Xá, Thái úy Nguyễn Sư Hồi cũng rất quan tâm phát triển kinh tế, chiêu tập dân cư, dùng các tù binh để khai phát đất đai. Ông đã truyền dạy cho dân chúng cách làm nông nghiệp và ngư nghiệp. Nghề chài lưới, đánh bắt hải sản sau đó trở thành nghề mang lại sự phồn thịnh cho vùng đất này nhờ nguồn hải sản ở đây rất dồi dào. Để có phương tiện ra khơi, Nguyễn Sư Hồi cho tuyển người đóng tàu thuyền giỏi từ ngoài bắc vào để phục vụ sửa chữa và đóng mới tàu thuyền cho hạm đội. Nghề đóng tàu thuyền vẫn còn tồn tại và thành làng nghề nổi tiếng cho đến nay tại làng Vạn Lộc và Trung Kiên.

Hơn 30 năm trấn trị tại Cửa Xá, Thái úy Nguyễn Sư Hồi đã dồn hết tâm sức để xây dựng, phát triển vùng đất Cửa Xá, biến mảnh đất hoang thành một địa bàn dân cư sầm uất, có tên gọi là làng Hải Ngung. Vào khoảng năm 1493, làng Hải Ngung đổi thành làng Hải Giang, về sau đổi thành làng Vạn Lộc và duy trì tên gọi này cho tới năm 1945. Vạn Lộc được đặt với ý nghĩa “muôn lộc đổ về đây”.

Sau khi mất, Thái úy Nguyễn Sư Hồi được người dân địa phương lập đền thờ để thờ phụng và tôn ông là thần hoàng của làng. Nay đền thờ của ông nằm bên con sông Cấm thuộc P.Nghi Tân, TX.Cửa Lò. Từ xưa đến nay, cứ 3 năm 1 lần, đến các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, từ ngày mùng 8 đến hết ngày 12 tháng giêng, người dân địa phương lại tổ chức lễ hội với nhiều hoạt động tế lễ, văn hóa, thể thao để tưởng nhớ đến ông. Không những thế, vùng đất Cửa Lò sau khi được khai phá từng sản sinh ra nhiều văn quan, võ tướng và nho y nổi tiếng. Cư dân nơi đây từng tự hào Cửa Lò là nơi “Văn giành đỉnh bút, võ chiếm đề đao, nền y học chưa nơi nào sánh kịp”.

Khai phá du lịch

Theo các thư tịch cổ và các tài liệu địa chất, vùng đất Cửa Lò được hình thành bởi sự bồi tụ của cát biển qua nhiều đợt biển tiến, biển lùi trong lịch sử. Trên những dải cát còn mặn chát nước biển, từ thế kỷ 15 đã hình thành nên các làng xã với cư dân dần đông đúc. Tên gọi Cửa Lò gây nhiều tranh cãi giữa các nhà địa danh học. Cuốn Cửa Lò - linh khí một vùng sông nước (Nhà xuất bản Nghệ An 2014) cho biết có một số học giả giải thích Cửa Lò xuất xứ là Kuala (từ gốc vùng Nam Đảo), có nghĩa là nơi con sông đổ ra biển. Tuy nhiên, theo các bậc túc nho và những người am hiểu về lịch sử vùng đất này, tên gọi Cửa Lò là hệ quả của sự biến âm Kẻ Lò mà thành. Bởi trước khi hình thành làng, xã, vùng duyên hải Nghi Lộc đã từng tồn tại nhiều vùng đất gọi là kẻ, như: Kẻ Áng (xã Nghi Quang ngày nay), Kẻ Đụn (xã Nghi Tiến)...

Đến năm 1907, sau khi phát hiện ra bãi cát thoải, độ mặn nước biển phù hợp, người Pháp đã cho xây dựng các nhà nghỉ ven biển Cửa Lò, đánh dấu bước ngoặt khai phá du lịch vùng đất này. Sau năm 1954, có thêm nhà nghỉ Công đoàn 3 tầng do Công đoàn tỉnh Nghệ An trực tiếp quản lý. Hồi đó, người dân địa phương gọi là “nhà mát”. Ngôi nhà này là biểu tượng của du lịch Cửa Lò vào những năm 60 của thế kỷ trước.

Cửa Lò được đánh giá là một trong những bãi biển đẹp, nước biển sạch và độ mặt phù hợp, bãi cát mịn, dài, thoải, lưu trường dòng chảy phân bố tương đối đồng đều, ít xuất hiện giếng xoáy gây nguy hiểm. Tuy nhiên, Cửa Lò vẫn là “nàng công chúa ngủ trong rừng”. Sau năm 1975, Cửa Lò vẫn là những bãi cát hoang sơ với những rặng phi lao vi vút gió.

Theo Khánh Hoan – TN





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • (SHO). Nhiều ngày qua, báo chí và cộng đồng dân cư mạng đã bày tỏ lòng kính yêu Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua những tin tức, đề xuất về việc lựa chọn đường đặt tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp

  • (SHO). Bộ VHTTDL đã có công văn gửi UBND các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước về việc phối hợp hoàn thiện hồ sơ di tích quốc gia đặc biệt Hệ thống di tích đường Hồ Chí Minh.

  • NGUYỄN VĂN DẬT 

    Quê hương là chùm khế ngọt
    Cho con trèo hái mỗi ngày.

                       (Đỗ Trung Quân)

  • KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP CẢNG CHÂN MÂY

    NGUYỄN HỮU THỌ
    (Chủ tịch, Giám đốc Công ty TNHH Một Thành Viên Cảng Chân Mây)

  • LÊ XUÂN THÔNG 

    Vai trò của nhà Nguyễn với Phật giáo Ngũ Hành Sơn
    Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) vốn đã là một trung tâm Phật giáo của Việt Nam thời chúa Nguyễn, nơi hình thành sớm các đạo tràng với sự tu chứng của các bậc danh sư, và đặc biệt nhận được sự quan tâm hỗ trợ của triều đình.

  • PHAN THUẬN AN

    Một sự tình cờ đã xảy ra trong lịch sử cận đại Việt Nam: có hai tướng Ngô Văn Sở sống cùng một thời kỳ. Xin tạm gọi nhân vật thứ nhất là tướng Ngô Văn Sở ấy, và nhân vật thứ hai là danh tướng Ngô Văn Sở triều Tây Sơn.

  • NGUYỄN NHÃ TIÊN
                         Tùy bút

    Đi trong tiết trời ngập tràn gió lạnh mùa xuân Côn Sơn, con đường hun hút xuyên giữa cánh rừng thông thoảng nhẹ từng làn mây khói mỏng mảnh bay lượn lờ, như dẫn dắt con người vào một thế giới xa xăm thanh vắng.

  • NGUYỄN VĂN QUẢNG - ĐÀO LÝ

    Thành Hóa Châu là một tòa thành có vai trò rất lớn trong lịch sử, chính vì thế nó đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ rất sớm của các sử gia.

  • NHỤY NGUYÊN

    Làng cổ Phước Tích quyến rũ với phong cảnh nhà vườn xanh mát. Cây thị gần ngàn năm tuổi tỏa bóng bên ngôi miếu cổ là một phần hồn vía của làng cùng nhiều mẩu chuyện thú vị về những di chỉ Chăm.

  • MẠNH TIẾN

    Rời Mèo Vạc về Đồng Văn, ngồi sau lưng anh xe ôm người Hmông, tôi vượt Mã Pì Lèng trong một sáng mùa hè mưa rả rích. Cung đường núi hiểm trở, liên tục gấp ngược khủy tay. Cheo leo. Một bên thăm thẳm đá, cao vun vút. Một bên hun hút sâu, những thung lũng.

  • NGUYỄN VĂN DẬT

    Theo gia phả của thợ đúc xứ Đàng Trong để lại thì từ thời Lê Trịnh mà thợ đúc xứ Kinh Bắc ra đi theo Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa lập nghiệp vì nhiều lý do mà trong gia phả nguyên bản bằng chữ Hán được soạn từ thời Cảnh Hưng (1740-1786), rồi tục soạn các đời tiếp Gia Long, Tự Đức đã ghi như sau:

  • LÊ TRÍ DŨNG

    Tôi vẫn phải thưa với bạn đọc rằng suy nghĩ dọc đường thì bao giờ cũng trục trà trục trặc, lục cà lục cục, lủng cà lủng củng và nó cũng gập ghềnh theo nhịp bánh xe lăn, nhất là lúc qua ổ trâu, ổ gà...

  • NGUYỄN QUANG HÀ - NGUYỄN VĂN DŨNG

    Muốn nhìn bức tranh thiên nhiên dựng khung cảnh hoành tráng của Bạch Mã, phải lùi đủ độ xa mới thật chiêm ngưỡng hết dáng vẻ uy nghi của nó.

  • NGUYỄN QUANG LẬP

    Thế rồi Ăm Hươn chống gối đứng dậy, lảo đảo tiến về vách trái nhà sàn đan dày bằng tre ca lay. Nơi đó có cái ca dóc như một búp măng ám khói, đang treo rủ ngược xuống, Ăm Hươn tiến tới gần, dướn lên, với tay lấy ca dóc nhưng không được. Lại dướn lên.. lại không được.

  • NHẤT LÂM 

    Trời đã sang thu, ngồi bên sông Héc Gieng chảy qua thị trấn Na Rì lộng gió mà uống rượu về đêm thì thật quá thú. Khúc sông này hẹp, bãi cát vàng hun dưới trăng, và bên kia sông là dãy núi trùng điệp chạy mãi tận Cao Bằng.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Các dân tộc thiểu số anh em sống nép mình bên những dãy Trường Sơn hùng vĩ ở Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, có rất nhiều nét văn hóa độc đáo và riêng biệt. Trong đó có nét đẹp của nghệ thuật làm đẹp mà những chủ nhân của nó hiện ít nhiều còn giữ lại hoặc hồi tưởng qua kí ức.

  • LÊ QUANG THÁI

    Chi thứ 5 trong 12 chi là THÌN, tượng cho con Rồng, chữ Hán viết LONG (龍), còn đọc là “thần”, có nghĩa lý như chữ “Thần” (宸), dị âm đồng nghĩa. Chữ này còn có nghĩa là cung vua. Cung điện sơn màu đỏ là vì thế.

  • VŨ TRƯỜNG AN

    Xưa nay, biểu tượng rồng thường được ứng với những bậc thiên tử, còn những người dân bình thường, chỉ có thể ví với thảo cỏ hay là hàng tôm tép, con bống, con cò..., ví mình với rồng dễ phạm tội “khi quân”.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG (Ghi chép)

    Ngày 02 tháng 5 năm 2011, Ban tổ chức Trại sáng tác văn học Quy Nhơn (do hai tạp chí Văn nghệ Quân đội và Sông Hương đồng tổ chức dưới sự tài trợ của Binh đoàn 15) đã tổ chức một chuyến đi thực tế tại Đức Cơ-Gia Lai, nơi có 3 công ty lớn của Binh đoàn đang làm ăn tại đó. Nhân tiện, tôi rẽ ngang vào Plei-Ku, nơi có 3 người đồng nghiệp cũng là học trò của tôi.

     

  • NGÔ MINH Kỷ niệm 50 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2011)