TRẦN THỊ HẰNG
Ảnh: internet
Thành phố ngày 20
Anh mang gì cho cuộc chiến ngày mai?
Người ta mang gươm và hoa hồng
Vinh quang cho mỗi lần máu đổ
Chẳng ai xem như một trò đùa
Đừng giận em
Đôi bàn tay bé xíu lặng im
Con đường quanh thành phố
Những ngọn đèn phờ phạc đứng yên
Dấu vết loài người
Vệt trầm cổ tích
Chúng mình đi thôi
Bay như cánh chim gọi mùa xa ngái
Ai mang hoa đến đây
Thắp mộ người thắng cuộc
Để viết lời ngợi khen
Những đứa trẻ không quần
Cụ già không khăn
Thành phố vẹn nguyên
Xuống cấp
và lai căng...
Chỉ cho em
Góc nào là thành phố
Em đóng lại cánh cửa
Bấm một ổ khóa
Để thành phố khỏi lang thang
Để lũ chúng mình có nơi tìm về trú ngụ
Chờ lành những vết thương.
Rừng
Không tiếng chim kêu
Không chân thú dữ
Chỉ loài sâu ẩn mình…
Rừng không tiếng bom gầm réo
Không máy bay thả chất độc lụi tàn
Núi vẫn khô
Cây vẫn đổ
Bầy sói đêm không nơi trú ngụ
Con cua quắt queo ẩn mình khe suối
Thương những chuyến xe
Có khi nào giận hờn hoang vắng
Bao yêu thương không nổi một lần nước mắt
Chúng mình chọn lặng im
Như con sâu chọn nép mình trong lá
Mong mưa qua
Tiếng thét nơi cuối rừng
Của chiếc xe bánh xích
Những người con lương thiện
Bị đẩy vào cuộc chiến mưu sinh
Mồ hôi chưa vơi bàn tay đã rỗng
Ánh sao băng vừa rơi nơi vũng nước
Ai đã vội đặt tên ngọn khói để mơ về trời
Chiếc lều màu cam nằm im
Những thân người đang run
Họ đố nhau về ngày mai
Về những chòm sao chưa bao giờ chạm tới
Và ngủ quên
Và không biết gì về cánh rừng lặng im
Chỉ loài sâu đêm gặm thầm giọt mồ côi trên lá
Ngày tháng năm nào đó
Nơi đây đã là cánh rừng
Cho loài chim di trú hót mừng buổi sáng đầu tiên
Ai đã chọn hàn gắn bằng nước mắt
Rừng hàn gắn bằng nước lũ
Khi cuốn trôi tất cả
Chúng ta ngang nhau ở điểm khởi đầu
Bầy kiến đỏ đen mải miết dắt nhau tìm cỏ mật
Em đừng quên
Những lần nguyện cầu
Những giờ nước mắt
Để mình ăn năn.
(TCSH350/04-2018)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi