Thơ của ông chân thực, tâm tình, nhiều nhạc điệu. Ông sử dụng song song câu thơ tự do và câu thơ cổ điển có vần. Ông xuất bản nhiều tập thơ: Trạm dừng chân của đoàn người đi đày (1936, tập thơ đầu tiên), Lên đường, Rừng thông Na-rốc (giải thưởng Lê-nin). Ông từng phát biểu quan niệm của ông về thơ: “Theo tôi, một nhà văn, ngoài số từ ngữ chung, phải có từ ngữ của chính mình làm của riêng… Phải nắm chắc mùi hương, màu sắc, ý nghĩa của từ, không gian và thời gian thích hợp cho nó”. Xin giới thiệu chùm thơ của ông. Những bài này phần nhiều không có đầu đề. Tôi vốn yêu những ai tin những cánh cò vụng dại mùa xuân tin giọt nước mát đỡ đần cơn khát tin hạt trĩu bông lúa ngoài đồng tin tình yêu thắp sáng ánh sao tin lửa than sưởi ấm tay người tin nẻo đường hun hút ánh dương tin tiếng mẹ đời đời bất diệt tin cổ tích của từng xứ sở tin tình anh em giữa những lòng người Và tôi ngại ngùng những kẻ không tin *** Đêm Ka-tưn hắt từng vũng trăng từng tràng họa mi xao náo từng hồi chuông báo tử không thôi Những cánh dơi như những lằn sét đen xẹt im tiếng trên đầu hay phải chăng là sợi khói tả tơi hay những dúm tro rời rã từ bãi than hồng còn hấp nóng. *** Trang hoàng căn phòng chúng ta Chọn giấy màu gì nhỉ Màu xanh bầu trời sang xuân hay trắng bạc như tua liễu? Vàng lúa óng ả có ngấn sương gieo? Hay màu lá pom quả pom vào buổi chớm thu có nắng có ong rộn rã? Hay màu chiếu xuống trên mặt hồ tháng chín có bóng cò rập đàn cất cánh bay? Hay là, thật tân kỳ chọn đường nét không đường nét mà kẻ a dua lên án mà thiên hạ vẫn xếp hàng thưởng thức như trước cửa hàng tạp hóa? Ta hãy còn chưa quyết bốn bức tường chờ đợi trang hoàng được dán đầy báo cũ không nhan đề không ngày tháng Nhưng tôi đọc ra hàng chữ: “Mặt trận Min-xcơ Những cuộc tấn công của bọn phát xít bị đẩy lùi” Vẫn trò cũ. Tôi ngạt hơi trong đám lửa hừng hực trong phòng… *** Người đến sau tôi.. Lấy gì san sẻ Buổi tối người đành phải chia tay? Hành trang tôi này đôi giày mòn vẹt Chẳng được việc gì cho bước nay mai Khúc hát ca… rồi cũng sẽ già Như chúng ta theo thời gian cằn cỗi Cho đất đai này tôi xin gửi lại Đất đai này trút mọc mầm ra Từ đất đai này và trong cuộc sống Tôi có đủ mái nhà thơm gỗ thông Thêm tiếng nói đầy nhạc điệu trong ròng Và vui buồn, và cái ăn cái uống Tôi mài miệt gieo mầm. Trong luống đất Hạt mầm sống dậy, có ngờ đâu? Khúc hát nào còn ươm hương đất Sẽ nhú lên thành chẹn giữa đời. *** - Tôi yêu em suốt đời! - Tôi đợi em suốt đời! - Tôi nhớ em suốt đời! Bấy nhiêu câu Dễ thường vô nghĩa đối với những người ta yêu ta đợi ta xa Bấy nhiêu câu chỉ trang trọng thật tình đối với những người đang yêu đang đợi đang còn sống… *** Vô tình tôi bẻ gãy cành cây tôi làm kinh động con chim trong tổ tôi chặn lối về của chú thỏ rừng rồi tôi quên lắng tiếng hải âu xao xác quên trả lại ánh sao băng cho trời quên nhặt mẩu bánh mì vương vãi quên viết thư cho em, lá thứ mười ba Bấy nhiêu lầm lỡ dồn dập thời gian em vắng Chắc em bỏ qua cho tôi giá em có mặt Nhưng kìa đến nay em vẫn vắng ĐỊNH LUẬT VẬT CHẤT BẢO TỒN Dẫu phải kiểm nghiệm đến kỳ cùng Dẫu sự sống quả tình tiếp nối không thôi Thì định luật chọn làm tiêu đề ở đây Vẫn khiến tôi tin chắc điều này: Sự sống vốn không cùng trong chu kỳ vô chung vô thủy Nghĩa là dẫu chết là trái hứa Tôi vẫn không chết dưới bàn tay thợ trời Đến phiên tôi được đặt lên lò cừ Thì thợ trời là tay tuyệt xảo Dựng nên phép lạ này từ xác thân tôi bụi đất: Tôi sẽ hóa thân thành con tu huýt cho mồm trẻ con Hay tôi sẽ thành bầu rượu đất thó sủi tăm Hạnh phúc của con người, của những người vô sự, chẳng hạn hạnh phúc của chúng mình, em nhỉ, Làm bằng máu thịt của đất, bằng lúa lổ quanh ta, Bằng mồ hôi và bụi đất bằng chân lý, bằng tình bạn vững bền, bằng lời ca, bằng lời nói tốt, bằng màu xanh bầu trời tôi yêu. Ai lấy mất một phần Hạnh phúc không còn toàn vẹn Ai mà chẳng có lần thầm nhủ, Thời son trẻ, nhân một ngày lễ lạc, Khi nhìn đàn thiếu nữ đánh đu: những người con gái uốn lượn lưng trời kia bắp chân còn in dấu rạ cánh tay còn hằn nắng rát tóc lệch ngôi theo làn gió thổi môi thèm hương hạnh phúc và màu mắt sao chép màu trời! Anh ngắm nhìn tắc lưỡi mình hãy chưa làm gì phải hối và anh nguyện cầu cho giờ tội lỗi cáo chung NGÔN NGỮ CỦA TÔI Tôi có chọn ngôn ngữ này thì chẳng phải vì nó là tiếng nói của sông, của rừng sồi, của lúa đồng cỏ nội, của lau lách mọc dày, của chim chóc co ro, cũng chẳng phải vì tôi nói sõi để dễ thành điệu đàn, hoàng oanh hay thi sĩ không phải đâu! Ngôn ngữ tôi, tôi chọn bởi nó khai sinh bao khúc hát bùi ngùi trong khi tôi muốn gắn nhiều chất liệu khác - Nào ánh sáng mặt trời, nào vui sướng của anh tôi viết bằng ngôn ngữ ấy chỉ khó cho riêng tôi hơn là cho kẻ khác vào thời buổi khác. *** Ơ, ngày xuân nào như ngày hôm nay! Không thể nào ngày mai kia ngàn vạn thứ xuôi về hư vô – mà không có chứng nhân mà không có chim chóc ngợi ca cày luống ở từng trời. Đã đến lúc phán quyết lớp kẻ thù của nhân loại! Tòa dành tiếng nói cho các mẹ, cho đá vữa, cho tro tàn nhà ngói nhà tranh cho người lính gục ngã vì tự do hòa bình rồi bất tử trong tượng đồng, sừng sững, Tòa dành tiếng nói cho nạng gỗ vẫn nghe hoài lộc cộc cho nhánh lúa quằn của đồng ruộng nát cho cơn gió cuồng từ luồng bom nguyên tử đem khói đen ám bóng mặt trời… Ơ, ngày xuân nào như ngày hôm nay! Bửu Ý dịch theo bản tiếng Pháp (Văn học Xô-viết, số 285, năm 1982) (2/8-83) |
PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)
Yevgeny Yevtushenko - Odysseas Elytis
Maiakôpxki là nhà thơ lớn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và là nhà thơ lớn của nhân loại thế kỷ XX.Thơ của ông biểu hiện nhiệt tình công dân mãnh liệt, là tiếng hát của tương lai, của chủ nghĩa Cộng sản, và tiếng thét căm giận đả phá những mặt tiêu cực trong cuộc sống Xô Viết lúc bấy giờ. Nhà thơ của quãng trường, nhà thơ hùng biện, đó là những từ để mệnh danh người nghệ sĩ kiểu mới này. Ông rất ít viết về thơ tình. Trong dịp kỷ niệm 30 năm sinh của nhà thơ. Tạp chí Văn học Xô Viết ngoài việc giới thiệu những bài thơ chủ đề công dân và xã hội nổi tiếng, còn giới thiệu 2 bài thơ tình của ông. Tâm hồn nồng nhiệt, đẩy đến tận cùng mọi sự, ngay cả lý tưởng hay tình yêu đó là bản chất của thơ Maia.
Hải Kỳ - Đỗ Hoàng - Nguyễn Khắc Thạch
Pimen Pan-tren-cô _ Xéc-gây Da-côn-ni-cốp _ Anatôn Grêtanikốp
XERGÂY ÊXÊNHIN(Trích từ “Những khúc bi ca” và tuyển tập thơ Xergây Êxênhin)
Ngày 22 tháng 10 năm 1987 Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố tên người được tặng giải thưởng Nôben văn học - nhà thơ Nga sống ở Mỹ Iosif Brodsky. I.Brodsky là nhà văn Nga thứ năm được nhận giải thưởng cao quý này. Sau I.Bunhin (1933), B.Pastemnac (1958), M. Solokhov (1965), A.Xongienhixun (1970).
Ludmila TatianitchevaTuổi tôi
OCTAVIO PAZ Tặng các nhà thơ André Breton và Benjamin Perêt
J.W.GOETHECa khúc thiêng liêng
LTS: Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7 - 11) Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của I.Bunhin, tác giả được giải Nobel 1933.
LTS: TOMMY OLOFSSON (1950) là một trong những nhà thơ "sung mãn" nhất Thụy-Điển hiện nay, tác giả bảy tập thơ (tính đến 1991). Ông còn là một chuyên gia về James Joyce, có bằng tiến sĩ văn chương của đại học Lund, tác giả hoặc người biên tập nhiều công trình biên khảo, và nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng của nhật báo Thụy Điển Svenska Dagbladet. Bản dịch Thơ nguyên sơ dưới đây dựa theo bản Anh văn của Jean Pearson: Elemental Poems (White Pine Press, N.Y. 1991)
WISLAWA SZYMBORSKA (Nữ nhà thơ Ba Lan. Giải Nobel văn học 1996)
FRED MARCHANT (Mỹ) Tặng Diệu LinhTựa đề của bài thơ là viết sau ba mươi năm Mậu Thân. Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc về những mất mát, những nỗi đau do chiến tranh gây ra.
Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.
PAVIL BUKHARAEP - IVAN SIÔLÔCỐP - IURI SMELIÔP
LTS: Là nhà thơ, tác giả của ba cuốn sách về thi ca. Cùng với Nguyễn Bá Chung ông đã cùng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa. Ông là giáo sư Anh ngữ, Giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk. Ông còn là người thẩm định tác phẩm bậc thầy của Trung tâm William Joiner nghiên cứu về chiến tranh và hệ quả xã hội tại Umass Boston.Ông cũng là người giới thiệu hai cuốn sách Núi Bà Đen của Larry Heinemann và Cốm non (Green Rece) của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch ở Mỹ.
Baolin Cheng (Trương Bảo Lâm) là một nhà thơ thành công của “thế hệ thứ ba” các nhà thơ hiện đại Trung Quốc (thế hệ thứ nhất thuộc thời “ngũ tứ” 1919, thế hệ thứ hai được gọi là thế hệ “thơ mông lung” sau cải cách mở cửa). Hiện định cư tại San Françisco (Hoa Kỳ) với tư cách một nhà thơ song ngữ Hoa - Mỹ. Theo Paul Hoover, chủ biên cuốn “Thơ Hậu hiện đại Mỹ”, thơ Baolin Cheng sử dụng những cách thức của thơ siêu hình học- những chuyện kể nén chặt và những cấu trúc ý niệm - phục vụ cho các mục tiêu hiện thực chủ nghĩa. Những bài thơ sau đây của Baolin Cheng đã xuất bản ở Mỹ và Trung Quốc dưới hình thức song ngữ.
RUDYARD KIPLINGRUDYARD KIPLING (1865 Bombay - 1936 Londres) sống trong môi trường Anh-Ấn văn hóa rất cao, là một nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết Le Livre de la Jungle (Cuốn sách của rừng xanh), Kim và là một nhà thơ . Thơ ông tập trung vào chủ đề giáo dục nhân cách và đạo đức. Bài thơ NẾU (IF) dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của ông.
ALLEN GINSBERG(Tôn vinh Kenneth Koch) (1)LGT: Allen Ginsberg (1926 - 1997): là một nhà thơ hậu hiện đại Mỹ nổi tiếng trong trào lưu Beat cùng với Jack Kerowack và Williams S. Burroughs. Tốt nghiệp đại học năm 1948, làm đủ thứ nghề: thủy thủ, thợ nhà in, rửa bát, điểm sách, nhân viên tiếp thị.