Hiểu được tâm ý của cha cũng là dã tâm của chính mình, Trương Bá Nghi cùng bộ tướng ngày đêm đôn đốc phu phen dốc sức. Vốn có chút kiến thức về phong thủy học được từ ngày còn ở phương Bắc, Trương Bá Nghi dựa trên dấu vết thành cũ cho đắp bốn cửa chính. Cửa phía Bắc ba tầng trên có địch lâu lớn đặt đại đội quân canh được làm bằng đá xám. Hai cửa Đông, Tây dựng địch lâu nhỏ bằng gạch. Riêng mặt thành phía Nam, y cho mở tới năm cửa đều đặt trống, chiêng, loa. Đây tuy là mặt phụ nhưng gắn liền với khu ở của dân chúng, phu phen tạp dịch đều đi qua cửa này. Để tiện bề trị nhậm, y cho chốt hai đội quân mã thường xuyên theo dõi, khám xét, sẵn sàng bắt bớ, đàn áp dân chúng. Mặt chính Bắc, trên luy lâu, y cho đắp thêm một đàn tế mỗi khi quan quân cử lễ có chỗ quỳ lạy hướng về phương Bắc.
Luôn mấy tháng ròng, việc phu dịch căng thẳng. Đám phu phen chỉ lăm le trốn chạy khiến Trương Bá Nghi không vui. Ở cái xứ An Nam này, dân chúng cứng đầu cứng cổ lắm và địa mạo ở đây cũng phức tạp, đôi chỗ rất khó lường. Khúc thành theo phương vị ăn ra sát mép sông Tô cứ ngày đắp đêm lại lở ùm ùm như có ma quỷ quấy nhiễu.
Một hôm, nhân trong người buồn bực, Trương Thuận gọi con đến bảo:
- Bá Nghi! Đêm qua ta nằm mộng thấy một vị thần cầm roi dâu đến đánh vào vai phải của ta. Ta đau như lìa mất cánh tay, mồ hôi tháo ra đầm đìa, tỉnh dậy mới biết là nằm mơ. Không biết là điềm gì? Lành dữ ra sao? Con mau triệu thầy Quách đến đoán xem sao.
Trương Bá Nghi cúi đầu suy nghĩ nói:
- Con xin tuân mệnh đón thầy Quách đến ngay!
Trương Bá Nghi đi rồi, Trương Thuận ngồi xuống chiếc ghế gỗ. Trên bàn, tấm địa đồ An Nam chằng chịt những nét gạch xóa. Ở phía góc bàn có tấm địa đồ nhỏ hơn hiện rõ La Thành trên giấy bồi thủ hạ vừa dâng lên hôm trước. Trương Thuận nhìn tấm địa đồ bất giác thở dài. Y chợt nhớ hôm tiễn y trấn nhậm phương Nam, vua Đường ân cần khẩu dụ: “Vẫn biết ngươi phải đi vào vùng lam sơn chướng khí trăm nghìn khổ cực nhưng ngươi hãy vì thể diện của trẫm mà yên ổn phương Nam, thời công ngươi lớn lắm đấy. Trẫm vẫn nghe rằng, An Nam có nhiều quý địa có thể kết phát tới ngôi thiên tử. Đất ấy xưa nay không hiếm anh hùng luôn làm cho các triều đại phương Bắc không được ăn ngon ngủ yên là mối lo trong lòng trẫm. Nay ngươi hãy vì trẫm sang đó tìm các mạch quý trấn trị nó đi. Đó là đại kế lâu dài của Đường triều ta. Trẫm nói ít ngươi phải tự hiểu mà làm”.
Trương Thuận nhìn mãi vào tấm địa đồ mà còn nghe lời vua văng vẳng. Đang chìm vào luồng suy tưởng, bỗng đâu Trương Bá Nghi dẫn thầy Quách, viên quan chuyên coi việc trấn trạch đã theo từ buổi đầu sang An Nam. Trương Thuận dợm đứng lên đang định nói điều gì với thầy Quách bỗng lảo đảo ngã sụm xuống. Trương Bá Nghi thất kinh vội chạy lại đỡ.
- Cha! Người sao vậy?
Thầy Quách cũng vội chạy đến dìu Trương Thuận tới chiếc sập gỗ bên phải, đoạn bắt mạch chăm chú. Gương mặt thầy thoắt trở nên căng thẳng. Thầy đờ đẫn bảo Trương Bá Nghi:
- Trương đại nhân nguy mất!
Trương Bá Nghi tâm trí rối bời, nói giọng cầu khẩn:
- Phụ thân ta thực ra là mắc bệnh gì? Ông là tâm phúc của phụ thân, có điều gì ông cứ nói? Mọi chuyện còn có ta đây!
Thầy Quách trầm ngâm một lúc mới nói:
- Ta không dám giấu tướng quân. Chuyện hệ trọng chứ không phải thường. Cha ngài e rằng không còn được lâu nữa. Hôm trước, Trương đại nhân đã bàn với ta dùng phương cách để trấn trị mười bảy mạch đất của vùng này có khí số kết phát sinh ra những bậc tuấn kiệt, thần đồng. Đặc biệt là ngôi đất ở phía chính Nam có khí số kết phát đế vương. Hôm phụ thân ngài nhậm chức hành binh, hoàng đế Đại Đường đã gọi ta và Trương đại nhân đặc biệt dặn dò. Sang đất này, toàn bộ tâm tư của ta và phụ thân ngài đều đặt cả vào việc đó. Ngặt nỗi, vị thần chủ trì ngôi đất phát tích đế vương là thần sông Cái, một vị thần phúc trạch dồi dào lại rất quảng giao. Ngôi đất dẫn mạch từ núi Tổ Ba Vì có Thánh Tản Viên cai quản nên không dễ gì trị được. Hôm trước, Trương đại nhân đã cho lập đàn tế thần định mưu mời vị thần sông Cái đến rồi dùng gươm nhúng máu gà chém cho mất thiêng đi. Chẳng dè Thánh Tản Viên báo trước cho vị thần sông nên việc lớn thành ra hỏng cả. Hiện nay thần sông đã quyết định trừng trị chúng ta. Việc đã gấp lắm rồi.
Trương Bá Nghi không khỏi kinh động thốt lên:
- Thảo nào! Phụ thân luôn mấy hôm toàn tính chuyện hậu sự. Thầy Quách! Ông thấy cha con ta chết không cứu hay sao?
Lão Quách rúm người trên kỷ gỗ. Y quá hiểu sự thâm độc của cha con họ Trương. Phải dùng mưu mới mong thoát được. Y vờ run rẩy nói:
- Trương tướng quân! Thực ra hùng tâm tráng trí của ngài còn hơn hẳn phụ thân mà quyền biến cơ mưu cũng ít người sánh kịp. Hôm trước, Trương đại nhân đã hồ đồ mạo phạm thần thánh nên sự thể mới như thế này. Theo ta, ngài cũng đừng nên đau xót quá mà lỡ việc lớn. Phụ thân mất rồi, việc đầu tiên ngài phải mau chóng ổn định cục diện, đường hoàng chấp chính mới là chí khí của bậc quân tử, khí phách vương giả của họ Trương. Ta biết ngài có điều khó xử. Nhưng còn ta đây, có lẽ nào vô dụng?
Trương Bá Nghi ranh mãnh nhìn thầy Quách. Hóa ra lão thầy địa lý này đã biết đến cả tim đen của cha con y. Việc tháng trước, Trương Thuận cho làm giả chiếu chỉ của Đường triều tấn phong con làm Chinh Nam đại tướng quân và gia tộc họ Trương được đời đời thế tập chức An Nam Đô hộ sứ họ Quách cũng biết. Y điềm nhiên bảo:
- Quách lão tiền bối mãi mãi là cha mẹ của ta. Việc lớn trong thiên hạ không nhờ vào lão tiền bối thì dựa vào ai? Một mai cha ta cưỡi hạc về trời thì Quách lão tiền bối chính là trọng phụ vậy. Xem ra, tài làm giả chiếu chỉ của lão bối lại có lần nữa được thi thố rồi. Ta nói vậy chẳng hay lão bối có chấp thuận không?
Thầy Quách mặt cắt không còn giọt máu, miệng lắp bắp:
- Xin tuân lệnh đại tướng quân!
Trương Bá Nghi mặt đanh lại. Đôi mắt đầy lòng trắng quăng quắc nhìn về phía trước. Trên kỷ gỗ, thầy Quách không dám động cựa. Không gian như đặc quánh lại trước mưu ma chước quỷ. Cả hai mỗi người theo đuổi dã tâm của riêng mình mà không hề hay biết trên chiếc sập gỗ phía góc sảnh đường, hồn Trương Thuận đã lìa khỏi xác từ lâu.
*
Rời phủ sở sau khi chứng kiến cái chết thảm của Trương Thuận, thầy Quách không khỏi kinh hãi vội vã rảo bước về gian nhà thuốc góc thành. Đã cưỡi lên lưng cọp, việc rời khỏi đó là muôn khó.
Vừa đặt mình xuống chiếc sập gỗ gụ đen bóng, đầu óc vẫn đang chờn vờn bỗng nghe bước chân người thình thịch ở ngoài. Quách Kiên co mình nhỏm dậy đã thấy hơn mười binh lính gươm giáo lăm lăm, mặt mũi đằng đằng sát khí do phó tướng Trương Thành, người nổi tiếng dã man tàn bạo trong các cuộc đàn áp đám phu phen ập tới trước sập.
Trương Thành lạnh lùng rít qua kẽ răng mệnh lệnh:
- Bắt tên giặc già này lại cho ta!
Quách Kiên ú ớ:
- Trương tướng quân nhầm người rồi…
Trương Thành cười khẩy, quắc mắt:
- Quân phản phúc còn già mồm sao? Chính ngươi đã đầu độc lão gia!
Đám quân lính ồ lên một tiếng xông vào trói nghiến Quách Kiên. Họ Quách định phân bua nhưng kịp nín nhịn. Quách Kiên bình thản để lũ binh lính trói dong về phía nhà ngục. Thật ghê tởm. Không thể ngờ được Trương Bá Nghi lại hạ độc thủ với người y vẫn gọi là thầy sớm đến thế.
Trương Thành không khỏi ngạc nhiên trước sự bình thản của Quách Kiên, người giữ vai trò quan trọng chỉ sau Trương Đô hộ sứ và Đại tướng Trương Bá Nghi. Cùng hội cùng thuyền, lại là người được Trương Bá Nghi hết sức tin dùng, Trương Thành lờ mờ hiểu đằng sau sự việc ắt có điều mờ ám. Đang tuần tiễu, đôn đốc đám phu phen phía cửa Bắc, chợt có người mang mệnh lệnh triệu tập gấp về soái phủ. Chưa kịp chào xong, Trương Bá Nghi nét mặt hầm hầm chỉ về chiếc sập cuối gian phòng lớn, nơi Đô hộ sứ Trương Thuận thường nghỉ ngơi buổi trưa từ ngày trị nhậm ở Tống Bình. Trương Bá Nghi gằn giọng:
- Phản thần Quách Kiên vừa hạ độc gia phụ. Ta biết thì đã muộn. Ngươi hãy đem võ sĩ bắt ngay lão già hiểm độc tống ngục rồi về đây đợi lệnh.
Trương Thành ngây người như không tin vào mắt mình, tai mình. Trên sập gụ, Trương lão gia mặt mũi xám ngoét, thất khiếu ri rỉ những vệt máu đen đặc như người trúng độc cực mạnh. Thấy Trương Thành cứ đứng ngây như vậy, Trương Bá Nghi hét lớn:
- Còn chưa đi đi!
Trương Thành vừa lảo đảo thối lui vừa hô lớn:
- Mạt tướng lĩnh mệnh!
Quát thét đám võ sĩ mau chóng tay đao tay kiếm tiến về phía Nam, nơi căn nhà Quách Kiên vừa ở vừa chế tác thuốc men cho đám quân tướng, Trương Thành dần tĩnh trí cảm nhận sự việc kinh hoàng đã xảy ra. Y lẩm bẩm: “Không thể nào…”. Chợt y cười gằn như ngộ ra điều gì đó ghê gớm trong lòng. Dãy nhà gỗ vẫn dùng để chứa thuốc chỉ độc Quách Kiên đang ở đó hiện ra trước mắt. Y thúc đám lâu la đập cửa xông vào.
Tống họ Quách vào căn phòng đặc biệt trong ngục thất, kiểm tra kỹ lưỡng một lần nữa, y quay ra nói với đám coi ngục:
- Các ngươi phải hết sức cẩn thận canh phòng. Từ bây giờ, Quách Kiên là trọng tội của Đường triều chứ không còn là quân sư của bản Đô hộ sứ nữa. Nếu có bề gì, ta sẽ lấy mạng các ngươi.
Đám cai ngục cúi rạp xuống đồng thanh:
- Chúng tiểu nhân phụng mệnh tướng quân!
Khi Trương Thành quay trở lại soái phủ bẩm báo công việc y vừa hoàn tất đã thấy tiếng khóc lóc nỉ non của đám đàn bà con gái. Trong phòng khách lớn, một cỗ quan tài đỏ chóe đang được đám lâu la khênh đặt ở chính giữa. Thoáng thấy bóng Trương Thành, Trương Bá Nghi vẫy y vào gian phòng phía trong. Cánh cửa lim lớn đóng thuỳnh ngay lại khi y vừa lọt vào gian phòng kín. Tiếng Trương Bá Nghi vang lên chờn chợn:
- Gia phụ ta chẳng may trúng độc của tên gian thần. Việc chôn cất cho gia phụ ta đã định liệu cả. Nay phiền tướng quân hai việc. Một mặt giữ nghiêm lòng quân. Ngày chôn cất gia phụ cũng là lúc công bố tội trạng soán nghịch của Quách Kiên. Một mặt ngươi kén người tâm phúc đem thật nhiều vàng lụa gấp rút đi Trường An tâu bẩm việc này. Vẫn có định lệ rằng, Đường triều phân phong vương vị cho Trương gia đời đời thế tập chức An Nam Đô hộ sứ, nhưng ngươi cũng biết đấy, các quan lại Đường triều ngay gian lẫn lộn khiến lòng thánh phân vân rồi chẳng biết thế nào. Nên không được tiếc ngọc ngà châu báu cho đám tham quan ở Đường triều để chúng không quấy nhiễu đại sự của Trương gia. Việc này phó thác cho ngươi cả. Mọi việc xong xuôi rồi ta sẽ phong ngươi là đại tướng thay ta. Ngươi có yêu cầu gì cứ xin nói thẳng.
Trương Thành toát mồ hôi, đôi mắt đục dại không dám nhìn thẳng vào Trương Bá Nghi. Cố trấn tĩnh, Trương Thành khúm núm:
- Đại tướng quân liệu việc như thần. Mọi sự sắp đặt tiểu tướng xin ghi nhớ.
Trương Bá Nghi lạnh lùng mệnh lệnh:
- Cho ngươi lui!
Trương Thành mở cánh cửa nặng trịch bước ra ngoài. Phía ngoài, đám quan lại thân cận, thê thiếp đang lục tục kéo đến đông đặc.
Còn một mình Trương Bá Nghi trong căn phòng kín, y khẽ nhếch mép nở một nụ cười nham hiểm. Chờ đợi mãi rồi cũng có ngày này. Bao nhiêu năm hao tâm tổn trí, trên mình khoác bao tiếng ác của nhân gian khi sắp bước đến đỉnh cao quyền lực y bỗng thấy có cái gì nặng trĩu đè vít xuống. Thấm thoắt, ngày cha con y rời khỏi Đường triều đã mười mấy năm. Biết bao máu xương của binh lính, của đám dân đen đổ xuống mảnh đất này. Cha y đã không có đường lui thì y càng không có đường trở về Bắc quốc.
Đang suy nghĩ mông lung, Trương Bá Nghi chợt lóe lên khi nghĩ đến họ Quách. Trương lẩm bẩm một mình:
- Ta phải đích thân khử hắn mới được.
Bên ngoài trời đã tối. Cỗ quan tài phủ lụa vàng nằm chềnh ềnh chính giữa phòng khách lớn. Không ai dám ì xèo khi Trương Bá Nghi ra lệnh dùng nghi lễ vương gia để khâm liệm Trương Thuận.
Rời khỏi nơi đèn nến lung linh, tiếng kèn, trống, nhị ảo não, tiếng khóc nỉ non, Trương Bá Nghi lặng lẽ bước về phía ngục thất. Phía sau y, bốn tên võ sĩ lầm lì như bốn cái bóng di động theo bước chân của chủ tướng một bước không rời.
Trong ngục thất, Quách Kiên xiềng xích đầy mình, ngồi co ro một góc, khuôn mặt họ Quách mười phần u uất.
Tiếng mở khóa loảng xoảng. Một bó đuốc cháy rừng rực hắt ánh sáng nhập nhoạng vào trong phòng giam. Trương Bá Nghi từ từ tiến về phía kẻ bị giam cầm. Cái bóng của họ Trương trùm lên choán hết người tù.
Không khí trong tù như đông đặc lại.
Trương Bá Nghi ra hiệu cho tên võ sĩ để bó đuốc lên sát vách nơi chiếc bàn gỗ gắn chặt vào bức tường đá.
Họ Trương trầm giọng:
- Các ngươi lui cả ra đi!
Mấy tên võ sĩ lục tục bước ra ngoài.
Người tù vẫn không nhúc nhích.
Trương Bá Nghi tiến sát đến người tù, nhìn thẳng vào khuôn mặt hốc hác râu ria tua tủa của Quách Kiên. Một lúc lâu, bỗng họ Trương từ từ quỳ xuống nói:
- Quách tiên sinh hãy vì đại Đường, vì tiền đồ của Trương gia ta mà chịu oan khuất vậy.
Người tù vẫn lặng im không nhúc nhích.
Trương Bá Nghi vẻ mặt tràn đầy xúc động nói tiếp:
- Ngài còn có thỉnh cầu gì, xin cứ nói ra đi. Những gì có thể làm được, Trương mỗ sẽ tận lực.
Người tù nhìn thẳng Trương Bá Nghi, giọng chứa chất căm hờn:
- Ngươi thật không bằng đồ cầm thú. Rồi ngươi cũng không có kết quả tốt đẹp đâu. Ta hận không xé xác được ngươi làm muôn mảnh. Loại người như ngươi sớm muộn gì cũng chết không có chỗ chôn thây. Oan hồn của ta sẽ theo ngươi để chứng kiến ngày ấy.
Trương Bá Nghi sững người trước sự hỗn láo của kẻ tử tù. Họ Trương từ từ đứng dậy, đi quanh trong phòng giam chật hẹp, nghe như nuốt từng lời của người tù. Đợi Quách Kiên nói hết những điều bi phẫn, họ Trương mới dừng bước, nói rành rọt từng câu từng chữ:
- Ngươi đã nói hết chưa? Ngươi tưởng Trương mỗ ta mù lòa hay sao? Chính phụ thân ngay từ ngày đầu đã muốn giết đồ chó săn ngươi nhưng ta đã mấy lần khuyên người để lại. Ngươi tưởng che mắt được ta ư? Cha con ta, Trương gia già trẻ lớn bé xông pha hòn tên mũi đạn không phải để cho lũ gian thần ở triều đình gièm pha hãm hại. Với bản lĩnh và tâm địa đen tối của ngươi mà đòi mơ đến chức An Nam Đô hộ sứ sao? Ta sẽ tấu về Đường triều âm mưu soán nghịch, tội làm giả chiếu chỉ, tội giết người diệt khẩu của ngươi để già trẻ lớn bé nhà ngươi ở Trường An sẽ bị tru di. Ta những tưởng ngươi biết điều hơn lẽ thiệt, van xin ta xem ra còn có thể tấu về Đường triều rằng ngươi tuổi cao bệnh trọng cưỡi hạc về trời, may ra ba họ nhà ngươi giữ được tính mạng. Nay ngươi chết đến nơi vẫn nói lời rắn độc, thử hỏi làm sao tha cho ngươi được. Ta và ngươi bây giờ không còn là nghĩa thầy trò, tình đồng liêu nữa mà đã là kẻ bá chủ một phương người tù tội dưới đất, khác nhau một trời một vực. Ngươi đọc nhiều kinh sách còn không biết đến điều tối giản đó ư?
Người tù hộc lên một tiếng, khí uất trào dâng, đột ngột nôn ra một bụm máu. Quách Kiên ngã lăn xuống đất, một lát mới từ từ tỉnh lại.
Họ Quách lóp ngóp trong vũng máu, gượng nhìn về phía Trương Bá Nghi đang đứng sững như một hung thần nói phều phào nhưng vẫn rõ từng tiếng:
- Trương Bá Nghi! Ta đã trúng độc kế của ngươi ôm hận mà chết nơi đất khách quê người. Ta có mấy lời nói với ngươi, cũng chẳng phải cầu lấy mạng sống của họ hàng ta đâu. Ta nói với ngươi tiếng nói lúc sắp chết của kẻ đi chinh phạt nơi nghìn dặm. Đất An Nam tuy nhỏ bé xa xôi, ở vào chỗ cuối đất cùng trời đầy rẫy lam sơn chướng khí nhưng là mảnh đất không chịu khuất phục cường quyền bạo ngược bao giờ. Rồi người dân xứ này sẽ vùng lên chôn vùi đánh đuổi áp bức xiềng xích đã đè nén họ. Ngươi cũng đừng mơ hùng cứ ở phương này. Tổ tiên ngươi vốn ở phương Bắc thì cái việc cát cứ phương Nam khó còn hơn lên trời. Rồi sử sách của họ sẽ đời đời ghi chép phỉ nhổ những điều thất đức của cha con ngươi. Ngươi tưởng ngươi giết được ta có thể làm mưa làm gió ở đất này ư? Ngươi hãy còn trẻ người non dạ lắm. Cái tài của ngươi chỉ nằm ở nơi chém giết lại thất đức hại cha giết thầy thì cuồng vọng ắt sẽ đổ gãy trong sớm tối. Tiền đồ của Trương Bá Nghi e là còn thảm hơn ta và cha ngươi đấy.
Nói đến đấy, người tù bỗng cất tiếng cười man dại. Tiếng cười như khoan sâu vào trí não Trương Bá Nghi.
Họ Trương rút kiếm gầm lên:
- Đồ rắn độc! Ta phải kết liễu mi!
Ánh kiếm vung lên. Một dòng máu tươi vọt thẳng về phía ngọn đuốc trước khi cái đầu bờm xờm của Quách Kiên, người thầy, cũng là thủ hạ tâm phúc của cha con Trương Thuận, Trương Bá Nghi gục xuống.
Đúng như lời nguyền cũng là tiên đoán của Quách Kiên, chưa đầy bốn năm sau, Đô hộ sứ Trương Bá Nghi bị viên quan đồng triều Cao Chính Bình lập mưu giết bằng rượu độc chết không nhắm được mắt.
Âu cũng là số kiếp của kẻ đi cướp nước người vậy.
P.V.K
(TCSH432/02-2024)
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…
NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.
THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.
XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.
PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...
PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.
QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.
XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.