Cha con Đô hộ sứ

08:13 14/03/2025
Năm Đại Lịch thứ hai nhà Đường (767), hai cha con An Nam Đô hộ sứ Trương Thuận, Trương Bá Nghi vâng mệnh đắp La Thành.

Hiểu được tâm ý của cha cũng là dã tâm của chính mình, Trương Bá Nghi cùng bộ tướng ngày đêm đôn đốc phu phen dốc sức. Vốn có chút kiến thức về phong thủy học được từ ngày còn ở phương Bắc, Trương Bá Nghi dựa trên dấu vết thành cũ cho đắp bốn cửa chính. Cửa phía Bắc ba tầng trên có địch lâu lớn đặt đại đội quân canh được làm bằng đá xám. Hai cửa Đông, Tây dựng địch lâu nhỏ bằng gạch. Riêng mặt thành phía Nam, y cho mở tới năm cửa đều đặt trống, chiêng, loa. Đây tuy là mặt phụ nhưng gắn liền với khu ở của dân chúng, phu phen tạp dịch đều đi qua cửa này. Để tiện bề trị nhậm, y cho chốt hai đội quân mã thường xuyên theo dõi, khám xét, sẵn sàng bắt bớ, đàn áp dân chúng. Mặt chính Bắc, trên luy lâu, y cho đắp thêm một đàn tế mỗi khi quan quân cử lễ có chỗ quỳ lạy hướng về phương Bắc.

Luôn mấy tháng ròng, việc phu dịch căng thẳng. Đám phu phen chỉ lăm le trốn chạy khiến Trương Bá Nghi không vui. Ở cái xứ An Nam này, dân chúng cứng đầu cứng cổ lắm và địa mạo ở đây cũng phức tạp, đôi chỗ rất khó lường. Khúc thành theo phương vị ăn ra sát mép sông Tô cứ ngày đắp đêm lại lở ùm ùm như có ma quỷ quấy nhiễu.

Một hôm, nhân trong người buồn bực, Trương Thuận gọi con đến bảo:

- Bá Nghi! Đêm qua ta nằm mộng thấy một vị thần cầm roi dâu đến đánh vào vai phải của ta. Ta đau như lìa mất cánh tay, mồ hôi tháo ra đầm đìa, tỉnh dậy mới biết là nằm mơ. Không biết là điềm gì? Lành dữ ra sao? Con mau triệu thầy Quách đến đoán xem sao. 

Trương Bá Nghi cúi đầu suy nghĩ nói:

- Con xin tuân mệnh đón thầy Quách đến ngay!

Trương Bá Nghi đi rồi, Trương Thuận ngồi xuống chiếc ghế gỗ. Trên bàn, tấm địa đồ An Nam chằng chịt những nét gạch xóa. Ở phía góc bàn có tấm địa đồ nhỏ hơn hiện rõ La Thành trên giấy bồi thủ hạ vừa dâng lên hôm trước. Trương Thuận nhìn tấm địa đồ bất giác thở dài. Y chợt nhớ hôm tiễn y trấn nhậm phương Nam, vua Đường ân cần khẩu dụ: “Vẫn biết ngươi phải đi vào vùng lam sơn chướng khí trăm nghìn khổ cực nhưng ngươi hãy vì thể diện của trẫm mà yên ổn phương Nam, thời công ngươi lớn lắm đấy. Trẫm vẫn nghe rằng, An Nam có nhiều quý địa có thể kết phát tới ngôi thiên tử. Đất ấy xưa nay không hiếm anh hùng luôn làm cho các triều đại phương Bắc không được ăn ngon ngủ yên là mối lo trong lòng trẫm. Nay ngươi hãy vì trẫm sang đó tìm các mạch quý trấn trị nó đi. Đó là đại kế lâu dài của Đường triều ta. Trẫm nói ít ngươi phải tự hiểu mà làm”.

Trương Thuận nhìn mãi vào tấm địa đồ mà còn nghe lời vua văng vẳng. Đang chìm vào luồng suy tưởng, bỗng đâu Trương Bá Nghi dẫn thầy Quách, viên quan chuyên coi việc trấn trạch đã theo từ buổi đầu sang An Nam. Trương Thuận dợm đứng lên đang định nói điều gì với thầy Quách bỗng lảo đảo ngã sụm xuống. Trương Bá Nghi thất kinh vội chạy lại đỡ.

- Cha! Người sao vậy?

Thầy Quách cũng vội chạy đến dìu Trương Thuận tới chiếc sập gỗ bên phải, đoạn bắt mạch chăm chú. Gương mặt thầy thoắt trở nên căng thẳng. Thầy đờ đẫn bảo Trương Bá Nghi:

- Trương đại nhân nguy mất!

Trương Bá Nghi tâm trí rối bời, nói giọng cầu khẩn:

- Phụ thân ta thực ra là mắc bệnh gì? Ông là tâm phúc của phụ thân, có điều gì ông cứ nói? Mọi chuyện còn có ta đây!

Thầy Quách trầm ngâm một lúc mới nói:

- Ta không dám giấu tướng quân. Chuyện hệ trọng chứ không phải thường. Cha ngài e rằng không còn được lâu nữa. Hôm trước, Trương đại nhân đã bàn với ta dùng phương cách để trấn trị mười bảy mạch đất của vùng này có khí số kết phát sinh ra những bậc tuấn kiệt, thần đồng. Đặc biệt là ngôi đất ở phía chính Nam có khí số kết phát đế vương. Hôm phụ thân ngài nhậm chức hành binh, hoàng đế Đại Đường đã gọi ta và Trương đại nhân đặc biệt dặn dò. Sang đất này, toàn bộ tâm tư của ta và phụ thân ngài đều đặt cả vào việc đó. Ngặt nỗi, vị thần chủ trì ngôi đất phát tích đế vương là thần sông Cái, một vị thần phúc trạch dồi dào lại rất quảng giao. Ngôi đất dẫn mạch từ núi Tổ Ba Vì có Thánh Tản Viên cai quản nên không dễ gì trị được. Hôm trước, Trương đại nhân đã cho lập đàn tế thần định mưu mời vị thần sông Cái đến rồi dùng gươm nhúng máu gà chém cho mất thiêng đi. Chẳng dè Thánh Tản Viên báo trước cho vị thần sông nên việc lớn thành ra hỏng cả. Hiện nay thần sông đã quyết định trừng trị chúng ta. Việc đã gấp lắm rồi.

Trương Bá Nghi không khỏi kinh động thốt lên:

- Thảo nào! Phụ thân luôn mấy hôm toàn tính chuyện hậu sự. Thầy Quách! Ông thấy cha con ta chết không cứu hay sao?

Lão Quách rúm người trên kỷ gỗ. Y quá hiểu sự thâm độc của cha con họ Trương. Phải dùng mưu mới mong thoát được. Y vờ run rẩy nói:

- Trương tướng quân! Thực ra hùng tâm tráng trí của ngài còn hơn hẳn phụ thân mà quyền biến cơ mưu cũng ít người sánh kịp. Hôm trước, Trương đại nhân đã hồ đồ mạo phạm thần thánh nên sự thể mới như thế này. Theo ta, ngài cũng đừng nên đau xót quá mà lỡ việc lớn. Phụ thân mất rồi, việc đầu tiên ngài phải mau chóng ổn định cục diện, đường hoàng chấp chính mới là chí khí của bậc quân tử, khí phách vương giả của họ Trương. Ta biết ngài có điều khó xử. Nhưng còn ta đây, có lẽ nào vô dụng?

Trương Bá Nghi ranh mãnh nhìn thầy Quách. Hóa ra lão thầy địa lý này đã biết đến cả tim đen của cha con y. Việc tháng trước, Trương Thuận cho làm giả chiếu chỉ của Đường triều tấn phong con làm Chinh Nam đại tướng quân và gia tộc họ Trương được đời đời thế tập chức An Nam Đô hộ sứ họ Quách cũng biết. Y điềm nhiên bảo:

- Quách lão tiền bối mãi mãi là cha mẹ của ta. Việc lớn trong thiên hạ không nhờ vào lão tiền bối thì dựa vào ai? Một mai cha ta cưỡi hạc về trời thì Quách lão tiền bối chính là trọng phụ vậy. Xem ra, tài làm giả chiếu chỉ của lão bối lại có lần nữa được thi thố rồi. Ta nói vậy chẳng hay lão bối có chấp thuận không?

Thầy Quách mặt cắt không còn giọt máu, miệng lắp bắp:

- Xin tuân lệnh đại tướng quân!

Trương Bá Nghi mặt đanh lại. Đôi mắt đầy lòng trắng quăng quắc nhìn về phía trước. Trên kỷ gỗ, thầy Quách không dám động cựa. Không gian như đặc quánh lại trước mưu ma chước quỷ. Cả hai mỗi người theo đuổi dã tâm của riêng mình mà không hề hay biết trên chiếc sập gỗ phía góc sảnh đường, hồn Trương Thuận đã lìa khỏi xác từ lâu.

*

Rời phủ sở sau khi chứng kiến cái chết thảm của Trương Thuận, thầy Quách không khỏi kinh hãi vội vã rảo bước về gian nhà thuốc góc thành. Đã cưỡi lên lưng cọp, việc rời khỏi đó là muôn khó.

Vừa đặt mình xuống chiếc sập gỗ gụ đen bóng, đầu óc vẫn đang chờn vờn bỗng nghe bước chân người thình thịch ở ngoài. Quách Kiên co mình nhỏm dậy đã thấy hơn mười binh lính gươm giáo lăm lăm, mặt mũi đằng đằng sát khí do phó tướng Trương Thành, người nổi tiếng dã man tàn bạo trong các cuộc đàn áp đám phu phen ập tới trước sập.

Trương Thành lạnh lùng rít qua kẽ răng mệnh lệnh:

- Bắt tên giặc già này lại cho ta!

Quách Kiên ú ớ:

- Trương tướng quân nhầm người rồi…

Trương Thành cười khẩy, quắc mắt:

- Quân phản phúc còn già mồm sao? Chính ngươi đã đầu độc lão gia!

Đám quân lính ồ lên một tiếng xông vào trói nghiến Quách Kiên. Họ Quách định phân bua nhưng kịp nín nhịn. Quách Kiên bình thản để lũ binh lính trói dong về phía nhà ngục. Thật ghê tởm. Không thể ngờ được Trương Bá Nghi lại hạ độc thủ với người y vẫn gọi là thầy sớm đến thế.

Trương Thành không khỏi ngạc nhiên trước sự bình thản của Quách Kiên, người giữ vai trò quan trọng chỉ sau Trương Đô hộ sứ và Đại tướng Trương Bá Nghi. Cùng hội cùng thuyền, lại là người được Trương Bá Nghi hết sức tin dùng, Trương Thành lờ mờ hiểu đằng sau sự việc ắt có điều mờ ám. Đang tuần tiễu, đôn đốc đám phu phen phía cửa Bắc, chợt có người mang mệnh lệnh triệu tập gấp về soái phủ. Chưa kịp chào xong, Trương Bá Nghi nét mặt hầm hầm chỉ về chiếc sập cuối gian phòng lớn, nơi Đô hộ sứ Trương Thuận thường nghỉ ngơi buổi trưa từ ngày trị nhậm ở Tống Bình. Trương Bá Nghi gằn giọng:

- Phản thần Quách Kiên vừa hạ độc gia phụ. Ta biết thì đã muộn. Ngươi hãy đem võ sĩ bắt ngay lão già hiểm độc tống ngục rồi về đây đợi lệnh.

Trương Thành ngây người như không tin vào mắt mình, tai mình. Trên sập gụ, Trương lão gia mặt mũi xám ngoét, thất khiếu ri rỉ những vệt máu đen đặc như người trúng độc cực mạnh. Thấy Trương Thành cứ đứng ngây như vậy, Trương Bá Nghi hét lớn:

- Còn chưa đi đi!

Trương Thành vừa lảo đảo thối lui vừa hô lớn:

- Mạt tướng lĩnh mệnh!

Quát thét đám võ sĩ mau chóng tay đao tay kiếm tiến về phía Nam, nơi căn nhà Quách Kiên vừa ở vừa chế tác thuốc men cho đám quân tướng, Trương Thành dần tĩnh trí cảm nhận sự việc kinh hoàng đã xảy ra. Y lẩm bẩm: “Không thể nào…”. Chợt y cười gằn như ngộ ra điều gì đó ghê gớm trong lòng. Dãy nhà gỗ vẫn dùng để chứa thuốc chỉ độc Quách Kiên đang ở đó hiện ra trước mắt. Y thúc đám lâu la đập cửa xông vào.  

Tống họ Quách vào căn phòng đặc biệt trong ngục thất, kiểm tra kỹ lưỡng một lần nữa, y quay ra nói với đám coi ngục: 

- Các ngươi phải hết sức cẩn thận canh phòng. Từ bây giờ, Quách Kiên là trọng tội của Đường triều chứ không còn là quân sư của bản Đô hộ sứ nữa. Nếu có bề gì, ta sẽ lấy mạng các ngươi.

Đám cai ngục cúi rạp xuống đồng thanh:

- Chúng tiểu nhân phụng mệnh tướng quân!

Khi Trương Thành quay trở lại soái phủ bẩm báo công việc y vừa hoàn tất đã thấy tiếng khóc lóc nỉ non của đám đàn bà con gái. Trong phòng khách lớn, một cỗ quan tài đỏ chóe đang được đám lâu la khênh đặt ở chính giữa. Thoáng thấy bóng Trương Thành, Trương Bá Nghi vẫy y vào gian phòng phía trong. Cánh cửa lim lớn đóng thuỳnh ngay lại khi y vừa lọt vào gian phòng kín. Tiếng Trương Bá Nghi vang lên chờn chợn:

- Gia phụ ta chẳng may trúng độc của tên gian thần. Việc chôn cất cho gia phụ ta đã định liệu cả. Nay phiền tướng quân hai việc. Một mặt giữ nghiêm lòng quân. Ngày chôn cất gia phụ cũng là lúc công bố tội trạng soán nghịch của Quách Kiên. Một mặt ngươi kén người tâm phúc đem thật nhiều vàng lụa gấp rút đi Trường An tâu bẩm việc này. Vẫn có định lệ rằng, Đường triều phân phong vương vị cho Trương gia đời đời thế tập chức An Nam Đô hộ sứ, nhưng ngươi cũng biết đấy, các quan lại Đường triều ngay gian lẫn lộn khiến lòng thánh phân vân rồi chẳng biết thế nào. Nên không được tiếc ngọc ngà châu báu cho đám tham quan ở Đường triều để chúng không quấy nhiễu đại sự của Trương gia. Việc này phó thác cho ngươi cả. Mọi việc xong xuôi rồi ta sẽ phong ngươi là đại tướng thay ta. Ngươi có yêu cầu gì cứ xin nói thẳng.

Trương Thành toát mồ hôi, đôi mắt đục dại không dám nhìn thẳng vào Trương Bá Nghi. Cố trấn tĩnh, Trương Thành khúm núm:

- Đại tướng quân liệu việc như thần. Mọi sự sắp đặt tiểu tướng xin ghi nhớ.

Trương Bá Nghi lạnh lùng mệnh lệnh:

- Cho ngươi lui!

Trương Thành mở cánh cửa nặng trịch bước ra ngoài. Phía ngoài, đám quan lại thân cận, thê thiếp đang lục tục kéo đến đông đặc.

Còn một mình Trương Bá Nghi trong căn phòng kín, y khẽ nhếch mép nở một nụ cười nham hiểm. Chờ đợi mãi rồi cũng có ngày này. Bao nhiêu năm hao tâm tổn trí, trên mình khoác bao tiếng ác của nhân gian khi sắp bước đến đỉnh cao quyền lực y bỗng thấy có cái gì nặng trĩu đè vít xuống. Thấm thoắt, ngày cha con y rời khỏi Đường triều đã mười mấy năm. Biết bao máu xương của binh lính, của đám dân đen đổ xuống mảnh đất này. Cha y đã không có đường lui thì y càng không có đường trở về Bắc quốc.

Đang suy nghĩ mông lung, Trương Bá Nghi chợt lóe lên khi nghĩ đến họ Quách. Trương lẩm bẩm một mình:

- Ta phải đích thân khử hắn mới được.

Bên ngoài trời đã tối. Cỗ quan tài phủ lụa vàng nằm chềnh ềnh chính giữa phòng khách lớn. Không ai dám ì xèo khi Trương Bá Nghi ra lệnh dùng nghi lễ vương gia để khâm liệm Trương Thuận.

Rời khỏi nơi đèn nến lung linh, tiếng kèn, trống, nhị ảo não, tiếng khóc nỉ non, Trương Bá Nghi lặng lẽ bước về phía ngục thất. Phía sau y, bốn tên võ sĩ lầm lì như bốn cái bóng di động theo bước chân của chủ tướng một bước không rời.

Trong ngục thất, Quách Kiên xiềng xích đầy mình, ngồi co ro một góc, khuôn mặt họ Quách mười phần u uất.

Tiếng mở khóa loảng xoảng. Một bó đuốc cháy rừng rực hắt ánh sáng nhập nhoạng vào trong phòng giam. Trương Bá Nghi từ từ tiến về phía kẻ bị giam cầm. Cái bóng của họ Trương trùm lên choán hết người tù.

Không khí trong tù như đông đặc lại.

Trương Bá Nghi ra hiệu cho tên võ sĩ để bó đuốc lên sát vách nơi chiếc bàn gỗ gắn chặt vào bức tường đá.

Họ Trương trầm giọng:

- Các ngươi lui cả ra đi!

Mấy tên võ sĩ lục tục bước ra ngoài.

Người tù vẫn không nhúc nhích.

Trương Bá Nghi tiến sát đến người tù, nhìn thẳng vào khuôn mặt hốc hác râu ria tua tủa của Quách Kiên. Một lúc lâu, bỗng họ Trương từ từ quỳ xuống nói:

- Quách tiên sinh hãy vì đại Đường, vì tiền đồ của Trương gia ta mà chịu oan khuất vậy.

Người tù vẫn lặng im không nhúc nhích.

Trương Bá Nghi vẻ mặt tràn đầy xúc động nói tiếp:

- Ngài còn có thỉnh cầu gì, xin cứ nói ra đi. Những gì có thể làm được, Trương mỗ sẽ tận lực.

Người tù nhìn thẳng Trương Bá Nghi, giọng chứa chất căm hờn:

- Ngươi thật không bằng đồ cầm thú. Rồi ngươi cũng không có kết quả tốt đẹp đâu. Ta hận không xé xác được ngươi làm muôn mảnh. Loại người như ngươi sớm muộn gì cũng chết không có chỗ chôn thây. Oan hồn của ta sẽ theo ngươi để chứng kiến ngày ấy.

Trương Bá Nghi sững người trước sự hỗn láo của kẻ tử tù. Họ Trương từ từ đứng dậy, đi quanh trong phòng giam chật hẹp, nghe như nuốt từng lời của người tù. Đợi Quách Kiên nói hết những điều bi phẫn, họ Trương mới dừng bước, nói rành rọt từng câu từng chữ:

- Ngươi đã nói hết chưa? Ngươi tưởng Trương mỗ ta mù lòa hay sao? Chính phụ thân ngay từ ngày đầu đã muốn giết đồ chó săn ngươi nhưng ta đã mấy lần khuyên người để lại. Ngươi tưởng che mắt được ta ư? Cha con ta, Trương gia già trẻ lớn bé xông pha hòn tên mũi đạn không phải để cho lũ gian thần ở triều đình gièm pha hãm hại. Với bản lĩnh và tâm địa đen tối của ngươi mà đòi mơ đến chức An Nam Đô hộ sứ sao? Ta sẽ tấu về Đường triều âm mưu soán nghịch, tội làm giả chiếu chỉ, tội giết người diệt khẩu của ngươi để già trẻ lớn bé nhà ngươi ở Trường An sẽ bị tru di. Ta những tưởng ngươi biết điều hơn lẽ thiệt, van xin ta xem ra còn có thể tấu về Đường triều rằng ngươi tuổi cao bệnh trọng cưỡi hạc về trời, may ra ba họ nhà ngươi giữ được tính mạng. Nay ngươi chết đến nơi vẫn nói lời rắn độc, thử hỏi làm sao tha cho ngươi được. Ta và ngươi bây giờ không còn là nghĩa thầy trò, tình đồng liêu nữa mà đã là kẻ bá chủ một phương người tù tội dưới đất, khác nhau một trời một vực. Ngươi đọc nhiều kinh sách còn không biết đến điều tối giản đó ư?

Người tù hộc lên một tiếng, khí uất trào dâng, đột ngột nôn ra một bụm máu. Quách Kiên ngã lăn xuống đất, một lát mới từ từ tỉnh lại.

Họ Quách lóp ngóp trong vũng máu, gượng nhìn về phía Trương Bá Nghi đang đứng sững như một hung thần nói phều phào nhưng vẫn rõ từng tiếng:

- Trương Bá Nghi! Ta đã trúng độc kế của ngươi ôm hận mà chết nơi đất khách quê người. Ta có mấy lời nói với ngươi, cũng chẳng phải cầu lấy mạng sống của họ hàng ta đâu. Ta nói với ngươi tiếng nói lúc sắp chết của kẻ đi chinh phạt nơi nghìn dặm. Đất An Nam tuy nhỏ bé xa xôi, ở vào chỗ cuối đất cùng trời đầy rẫy lam sơn chướng khí nhưng là mảnh đất không chịu khuất phục cường quyền bạo ngược bao giờ. Rồi người dân xứ này sẽ vùng lên chôn vùi đánh đuổi áp bức xiềng xích đã đè nén họ. Ngươi cũng đừng mơ hùng cứ ở phương này. Tổ tiên ngươi vốn ở phương Bắc thì cái việc cát cứ phương Nam khó còn hơn lên trời. Rồi sử sách của họ sẽ đời đời ghi chép phỉ nhổ những điều thất đức của cha con ngươi. Ngươi tưởng ngươi giết được ta có thể làm mưa làm gió ở đất này ư? Ngươi hãy còn trẻ người non dạ lắm. Cái tài của ngươi chỉ nằm ở nơi chém giết lại thất đức hại cha giết thầy thì cuồng vọng ắt sẽ đổ gãy trong sớm tối. Tiền đồ của Trương Bá Nghi e là còn thảm hơn ta và cha ngươi đấy.

Nói đến đấy, người tù bỗng cất tiếng cười man dại. Tiếng cười như khoan sâu vào trí não Trương Bá Nghi.

Họ Trương rút kiếm gầm lên:

- Đồ rắn độc! Ta phải kết liễu mi!

Ánh kiếm vung lên. Một dòng máu tươi vọt thẳng về phía ngọn đuốc trước khi cái đầu bờm xờm của Quách Kiên, người thầy, cũng là thủ hạ tâm phúc của cha con Trương Thuận, Trương Bá Nghi gục xuống.

Đúng như lời nguyền cũng là tiên đoán của Quách Kiên, chưa đầy bốn năm sau, Đô hộ sứ Trương Bá Nghi bị viên quan đồng triều Cao Chính Bình lập mưu giết bằng rượu độc chết không nhắm được mắt.

Âu cũng là số kiếp của kẻ đi cướp nước người vậy. 

P.V.K
(TCSH432/02-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VIỆT HÀCó một ngày rất âu lo đã đến với thằng béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi. Trước đấy hình như duy nhất một lần cái cảm giác bất an này cũng đã đến. Láng máng không thể nhớ.

  • MA VĂN KHÁNGKhi những người U Ní ở vùng biên sau mấy tháng trời đông giá, ngồi trong nhà đánh cuốc, sửa dao, đan lát bước ra khỏi căn nhà đất dày kín như cái kén, đặt chiếc vai cày lên cổ con trâu, đi những đường cày đầu tiên, hoặc rủ nhau đi bán công khắp các nơi trong vùng thượng huyện Bát Xát, thì hoa gạo bắt đầu nở.

  • PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!

  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.