Bún ngũ sắc Vân Cù

15:01 26/08/2011

HOÀNG THỊ NHƯ HUY

Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

Nghề làm bún ở làng vân Cù - Ảnh: netdephue.net

Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte="" mso=""> <![endif] div="">

Rồi những năm tháng lớn lên trên đất Huế, khi được ăn những đọi bún ngon nổi tiếng của Mụ Rớt, Mẹ Rơi... luôn được người bán đon đả giới thiệu: “Bún ni tui mua từ Vân Cù đó o nợ!”. Tôi mong một ngày nào đó được về nơi làng quê ấy để được tận mắt xem người thợ bên nồi nước đang nghi ngút bốc hơi, nặn những con bún dẻo mềm này.

Và một ngày cơ duyên đã đến. Nhân tiễn đưa cô bạn thân đi lấy chồng, tôi đã được đi đò xuôi dọc sông Bồ về tận làng Bún ven sông này.

Vân Cù là một làng có lợi thế về giao thông cả bộ lẫn thủy. Nhờ có sông nên đất luôn được bồi thêm nên cây cối tốt tươi, tạo nên một cảnh sắc xinh đẹp hữu tình. Nó là một miền quê gắn liền với cuộc di dân khẩn hoang mà sách Ô châu Cận lục đã ghi như bao làng quê khác trên miền đất Hóa Châu xưa.

Những người theo chân chúa Tiên, đã đến khai canh làng quê nhỏ này, dạy dân dựng làng, ổn định dần cuộc sống với nhiều nghề lao động thủ công. Nghề làm bún với những sợi bún trắng, dẻo, thơm vì thế đã đem lại cho làng quê này một thương hiệu đáng tự hào về một nghề truyền thống đậm đà bản sắc Việt Nam: Bún Vân Cù.

Trong thời điểm này, có ba trăm sáu mươi hộ dân lưu trú thì đã có đến ba trăm hộ sinh sống bằng nghề bún. Bình thường, sợi bún Vân Cù nổi tiếng với mùi vị đặc trưng: không chua mà dậy hương thơm tinh khiết, vương vương một chút ngòn ngọt của bột gạo tẻ. Sợi bún dẻo, màu trắng trong và mướt... người ăn chỉ đưa vào miệng, cảm giác mát rượi, không cần nhai, chỉ nuốt là trôi tuột xuống cuống họng...

Thế nhưng hôm nay, trên mâm cỗ gia tiên của gia chủ nhân ngày đám cưới này, lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy một mâm bún với năm sắc màu xanh, đỏ, vàng, tím, trắng. Từ ngỡ ngàng đến xúc động bởi cái đẹp lạ lùng toát lên từ những con bún dẻo, trong, đang khoác sắc màu lộng lẫy, tôi đã lân la tìm tác giả của món bún này để hỏi cho ra cội nguồn.

Hóa ra nơi miền quê này trong những tế lễ quan trọng như giỗ Tổ nghề, giỗ Thần hoàng, mâm cỗ cưới xin… những gia đình có nghề bún mới bỏ công chế biến riêng 5 mẻ bún với năm màu trên.

Tò mò tìm hiểu thêm, được biết việc pha màu dân làng chỉ sử dụng phẩm màu kém chất lượng ở vùng chợ quê này hoặc họa hoằn lắm mới lên mua trên chợ tỉnh. Đẹp thì đẹp thật nhưng không ai dám chắc là người ăn thật sự an lành khi ăn.

Hình ảnh ấy cứ vấn vương theo tôi mãi…

Một ngày, trên xứ sở Spaghetti, tôi lại được nhìn nhiều loại mỳ Ý Spaghetti, Tagliatelle, Macaroni... với nhiều sắc màu khác nhau. Vào xưởng chế biến, nhìn thấy người thợ làm mỳ sợi đang xay những thau nước màu từ cây cỏ để nhồi các khối bột tạo màu cam, đỏ, xanh từ củ cà rốt, củ dền, lá persil, lá cresson… bóng hình sợi bún ngũ sắc năm nào nơi làng quê Vân Cù lại hiện ra… Và tôi hiểu, phút giây này tôi đã tìm ra hướng đi đúng cho việc tái hiện con bún ngũ sắc này.




Trở lại Vân Cù, tôi được ngồi bên những bậc cao niên đã có bề dày kinh nghiệm như bà Trương Thị Cầm, bác Nguyễn Văn Lành… tôi học hỏi thêm nhiều điều bổ ích. Lại được cùng những người thợ làm bún bắt tay vào những công đoạn thực tế, tôi đã tập tành dần làm nên những con bún dẻo mềm như mong ước năm xưa. Phối hợp kiến thức đã học bên trời Âu, tôi đi khắp nơi tìm những cây lá cho màu tự nhiên đem về trồng trong vườn nhà để thử nghiệm việc tạo màu cho món nấu.

- Màu đỏ: Tùy các cấp độ nhạt đậm có thể dùng củ Dền, quả Gấc, lá cây Diễn, quả Dâu tơ tằm.

- Màu tím: Từ tím hoa cà đến tím than dùng phần vỏ cứng củ khoai Tía, lá Cẩm, củ khoai lang lai giống tím…

- Màu xanh: Dùng lá Bồ ngót, lá Dứa (Nếp), lá Mảnh cộng…

- Màu vàng: Dùng củ Nghệ, hạt Dành Dành…

- Màu gạch: Cà rốt...

Trong qui trình chế biến, đầu tiên, lượng nước chiết xuất từ các rau củ này sẽ dùng ngâm cho hạt gạo thấm màu rồi sử dụng luôn khi xay thành bột nước

Tiếp đến lọc bột định hình thành trái bột.

Đem trái bột đi luộc độ chín trùng rồi cho vào máy đánh thành khối bột nhão sền sệt.

Đến lúc này khối bột nhão mới được cho vào máy ép thành sợi xuống nồi luộc bún đang sôi.

Lửa đỏ rực, nước sôi ngùn ngụt, sẽ làm con bún chín nổi dần lên mặt nước. Dùng vợt vớt lên cho ngay vào thau nước rửa. Xả ba bốn bận nước cho thật sạch rồi để ráo là có mẻ bún sử dụng ngay.

Qua nhiệt chế biến, màu tự nhiên của thực vật ở từng con bún có thể nhạt dần nên cần ngâm gạo với lượng màu đậm đặc hoặc thêm một ít màu thực phẩm trong danh mục được phép sử dụng.

Nghề làm bún thật vất vả. Nhưng với ước mơ phục hồi lại những sợi bún ngũ sắc đã giúp tôi kiên trì vượt qua những giờ phút lao động mệt nhoài trong tiếng máy nổ ầm ầm, những vệt khói bay lên mịt mù từ bếp lò than và hơi nóng bay lên từ nồi luộc bún, những nóng lạnh đột ngột ở đôi tay khi chao bún rửa từng mẻ bún mới ra lò… đã làm những giọt mồ hôi đua nhau tuôn đổ… để sau đó mẻ bún ngũ sắc đầu tiên của tôi cũng ra lò. Hương thơm từ hương lúa, màu tươi từ màu cỏ cây… đã xua đi tất cả để giờ đây trên môi tôi chỉ còn đọng lại nụ cười hạnh phúc.

Nghề bún tuy vất va, thu nhập từ những mẻ bún lại không là bao nhưng người Vân Cù đã rất hãnh diện về nghề truyền thống của quê mình và ra sức gìn giữ cho đời sau. Một mặt họ vẫn quyết tâm cho con em ăn học thành tài để nở mày nở mặt… nhưng mỗi con trẻ của các gia đình đều được ông bà cha mẹ truyền nghề.

Đặc biệt, việc truyền nghề không quan niệm chỉ truyền cho con trai như một số làng nghề khác. Họ đang ước mơ có một ngôi nhà truyền thống để lưu lại những di sản đang ngày một mất mát và biến đổi dần vì tác động của việc đô thị hoá miền quê này. Họ vẫn còn mong ước tạo thêm những sản phẩm bún mới, đặc sắc hơn có thể sử dụng dài hạn hơn, ngon hơn mang thương hiệu Vân Cù, đến những thị trường xa hơn trong và ngoài đất nước.

Đó là những ước mơ chân chính. Có thể thành hiện thực hay không còn tùy thuộc tâm và lực của miền quê này.

Bài làm thử nghiệm hôm nay chỉ góp phần nhỏ giúp bảo lưu một giá trị văn hóa ẩm thực của miền quê đang có nguy cơ mai một. Điều cần thiết hơn hết là cần giúp họ cải thiện điều kiện vệ sinh trong chế biến để bún Vân Cù mãi mãi góp công tạo nên hương vị cho những món ăn Huế lừng danh.

Huế, 2011
H.T.N.H
(270/08-11)







 

<![endif][if gte="" mso=""><![endif] div="">

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.

  • Vùng quê nghèo chúng tôi nằm sát chân núi Hồng Lĩnh có Hàm Anh (nay là xóm 1 xã Tân Lộc) từng sản sinh ra một Tiến sĩ xuất thân Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) (1499) đời Lê Hiến tông tên là Phan Đình Tá (1468-?)

  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.