A. J. MCKENNA (Anh)
Đó là sinh nhật của Jim Brennan. Ông thức giấc vào buổi sáng tháng Tám ẩm ướt này, giật mình bởi tiếng chim hót vang khắp khu vườn. Đầu óc rối bời, ông cứ nằm mãi, gắn ánh mắt vô hồn vào mảng giấy hoa dán tường đã bạc phếch, đối diện chiếc giường bừa bộn của ông, nơi mặt trời sưng sỉa hắt ánh hồng lên.
Minh họa: Nhím
“Hôm nay sinh nhật mình,” rốt cuộc ông nhớ ra. “Bảy sáu rồi. Nhanh thật.”
Ông trở dậy, đau mỏi khắp người. Trong bộ pyjama sọc, ông khó nhọc đến bên cửa sổ, đứng ngắm khu vườn. Có ối việc dồn lại nhưng đã quá trễ. Dạo này cỏ um tùm, giá đừng đau lưng. Ngoài vườn hồng ngập nắng cỏ cây như bừng tỉnh, cây ông lão vươn mình như đứa trẻ đang lớn còn luống cúc vạn thọ rực vàng khoe sắc.
“Hôm nay sinh nhật mình.”
Tiếng chó sủa vọng đến từ nhà bên. Một con mèo phóng lên bờ thành gắn mảnh thủy tinh lởm chởm rồi thu mình chỗ bóng cây táo rình lũ chim sẻ đang háo hức đón bình minh. Bên dưới cái lồng chim bị hỏng, một con chuột đang gặm mẩu bánh mì dở. Bóng đổ của bờ giậu khu vườn trở nên nhỏ thó co rút, thẹn thùng tan trong nắng mai và vì sao cuối cùng mất dấu khi vầng dương xuất hiện. Bắt đầu cho một ngày ngột ngạt tháng Tám.
*
Jimmy Brennan, bảy sáu tuổi, ngồi trong bếp. Im ắng. Toàn bộ căn nhà tĩnh lặng, những thứ quanh ông không còn chút sinh khí, mái trĩu nặng và lò đã tắt. Ông Jim đưa bàn tay gân guốc phủi những mảnh vụn bánh mì trên chiếc bàn nhựa và khi ông lê bước, bụi thêu dày vạt nắng. Ông lắng nghe sự trở mình thức tỉnh của một ngày mới, tiếng tích tắc hối hả từ chiếc đồng hồ trên tủ, tiếng lạch cạch gợi nhắc từ hòm thư...
Ông Jim lên nhà trên lấy các hóa đơn rồi xem tờ rơi quảng cáo hàng giảm giá và những kỳ nghỉ ở nước ngoài. Jim chưa từng rời khỏi Ai-len hay trải nghiệm những chuyến hải hành. Ông rướn đôi mắt kèm nhèm mệt mỏi của mình nhìn những bì thư cách một sải tay. Không hề có thiệp mừng sinh nhật để thở phào một cái cho đã - đời giờ ai nhớ?
Quay trở lại nhà bếp quen thuộc, ông rọc thư xem. Còn hơn không có gì - dù là giấy báo nợ thì ít nhất cũng có người liên lạc với ông. Xem chán, Jim nhìn ánh mặt trời hắt lại từ ấm trà cũ rồi bỏ những lá thư chẳng mấy hay ho lại đọc sau, ông đi châm thêm trà. Ông ngồi và nghĩ về sinh nhật xưa. Cuộc chè chén say sưa, hát hò và chúc tụng, người chết lâu rồi ai nhớ. Về một thời, đó là khi nào nhỉ?
“Thời gian như bóng câu...” - ông nói.
Ông đang nói với chính mình, hầu như ngày nào cũng vậy - ai sẽ nghe chứ? Đồng hồ trên phòng khách điểm giờ, Jim mệt mỏi đứng lên. Lại một ngày mới đến với ông. Mở rađiô, toàn tin xấu. Trẻ em chết, những cảnh đời đau đớn, bệnh tật, chiến tranh. Ông cười ra nước mắt khi quảng cáo chen vào. Thế giới trở nên điên loạn, tàn ác, vô cảm và dường chẳng ai nhận thấy. Ông chuyển đài, giọng ngoại quốc liến thoắng lảm nhảm trên sóng. Nói như lua canh, tra tấn người nghe về các vụ hiếp dâm trẻ em, chắc thế. Các phương tiện truyền thông khoái sỉ nhục người vô tội bằng những bản tin, những câu chuyện “nóng hổi”. Thời xưa khác xa: dường như yên tĩnh hơn và trẻ em có thể chơi trên phố. Thời xưa... đó là khi nào nhỉ? Thời nắm tay tung tăng hát. Ông lẩm nhẩm bản nhạc thiếu nhi:
Ring- a- ring- a- rosy!
Jim mỉm cười, nhận ra vở nhạc kịch Đám cưới Figaro của Mozart và vai nữ giả nam Cherubino đã cứu rỗi một buổi sáng u ám. Sau đó, ông thay đồ, đi dạo. Đội chiếc mũ len có lưỡi trai, ông chống gậy ra cửa trước và kiểm tra cửa nẻo. Mọi thứ đều chốt khóa kĩ. Khi căn nhà rệu rã phát ra âm thanh kẽo kẹt vào ban đêm, Jim nghĩ đến bọn trộm và run rẩy hình dung cảnh chúng lẻn vào khống chế ông.
Thật là một thế giới!
Đu đưa theo giai điệu bài hát, Jim mở cửa và thấy Ellen Kelly đứng đó với nụ cười rạng rỡ.
“Chúc mừng sinh nhật, Jim.”
Chẳng ngạc nhiên nữa, Jim mỉm cười đáp lại rồi thở dài vì thực ra Ellen không ở đó.
Ellen Kelly, mười bốn tuổi, tuần trước. Gần đây ông thấy Ellen luôn. Nàng đã đi sau ông suốt quãng đường đến cái thư viện yên tĩnh hôm qua và khi ông ngồi nghỉ trong Công viên Carolyn, cô đứng dưới bóng cây đợi ông.
“Em đã không quên,” Ellen nói.
“Anh biết, anh biết.”
“Anh sẽ ra ngoài chơi chứ?”
“Anh không thể Ellen. Em đã chết.”
Mặt trời nghiêng phố, nghỉ chân trên nhà Jim còn Ellen nhạt nhòa theo bóng nắng.
“Tội nghiệp Ellen,” Jim thì thầm buồn bã. “Tội nghiệp em yêu đã chết rồi.”
*
Jim tránh siêu thị. Nó quá phức tạp. Nhiều người đang cố trả tiền cho lẹ để về nhà. Trẻ nhỏ khò khè lên cơn hen suyễn. Đám nữ choai choai chảnh chọe thì oang oảng chuyện cần giải quyết gấp. Các cậu trẻ đeo vòng tai, hói đầu lấn tới, mắt mơn trớn từng đường cong. Không thèm liếc lại. Con gái đòi hỏi nhiều hơn thế. Xe đậu bát nháo, bon chen hết sức để kiếm ít tiền. Các bà nội trợ vội vã, khởi động, nhấn ga, khói xe khét lẹt, những người phụ nữ được giải phóng với rất ít sự thoải mái. Sự kiệt sức ở các siêu thị cùng quá nhiều sự lựa chọn. Quá lớn, quá hiện đại. Quá cô đơn với Jim.
Ông đến các cửa hàng nhỏ hơn, tán gẫu với người quen, mua sữa, trứng và một ổ bánh mì nhỏ nóng hổi. Tới một đoạn nữa, bên ngoài cửa hàng từ thiện, bà Barret ở số hai mươi chín gật đầu chào, hỏi:
“Ông khỏe không?” - bà nhìn ông đứng trong quầy vẻ săm soi.
“Tuyệt, ơn Chúa. Còn bà?”
“Không thể tốt hơn.”
Cuộc đời ngập ngụa lời lịch sự giả dối.
Lê chân qua những con phố ngột ngạt nóng bức, Jim trở về chỗ trú thân của ông già 76 tuổi.
*
Ông ngồi trên chiếc ghế bành trong phòng khách nhìn ra đường. Chuông đồng hồ điểm mười tiếng. Ngày còn dài phía trước, dài theo nỗi buồn bất tận của đời ông. Mười giờ sáng đáng sợ. Ông không có gì để làm còn các cô gái bên ngoài mặt mày sáng rỡ thì luôn vội vã, nắng trên đầu, thời gian trên tay. Những đôi chân nhún nhảy, vớ đen, váy ngắn, ngắn đến tội lỗi, gọi mời.
Rất mừng vì mình không còn trẻ nữa.
Jim khinh ghét thời gian này trong ngày. Quá nóng để dạo ra vườn, ngồi không cũng chán, chẳng nghĩ được điều gì hay ho ngoài việc lo bữa trưa. Ăn uống qua loa cho cả buổi chiều lê thê sầu rũ như đường vắng vô định. Jim thử đọc cái gì đó, nhưng có đeo gương vẫn thấy kèm nhèm, không rõ chữ.
“Ellen,” ông khe khẽ gọi và tên nàng vang vọng trong đầu ông như một hồi chuông.
Ellen Kelly, Kelly Ellen, Kellen Nelly.
Jim đùa vui cùng nàng. Mắt ông khép lại. Ông đang chìm vào cơn mơ thì nghe tiếng loảng xoảng từ cái nắp đồng của hộp thư vẳng đến. Jim chậm rãi tới trước, mở nhẹ cửa lớn. Ellen ở đó, như phép màu, mười lăm tuổi, trông thật đáng yêu và rạng ngời dưới vạt nắng chiều. Ellen Kelly, nét mặn nồng tinh khôi thiếu nữ và trong sáng hồn nhiên trẻ thơ.
“Anh không ra ngoài chơi sao, Jim?”
Từ phía sau, một cái bóng khác trong hành lang tối, mẹ của Jim, mỉm cười.
“Ellen yêu quý, nó mắc đi mua đồ hộ cô rồi.”
Jim, chàng trai mười sáu tuổi đang rạo rực niềm vui, mắc kẹt ở giữa hai phụ nữ, đành im lặng dẫu biết tâm hồn Ellen sẽ nhói đau.
“Vậy em sẽ theo anh,” Tính Ellen rất dễ thương, nàng luôn luôn làm vừa lòng mọi người. “Chúng mình sẽ cùng đi chợ. Như thế thì được chứ?”
Mẹ đồng ý. Bà yêu thương Ellen, coi cô bé hàng xóm ấy như con gái mình - một đứa con mà bà tới ngày tóc điểm bạc còn ao ước.
“Tất nhiên là được, cưng.”
Jim và Ellen đi ra đường trong khi mẹ đứng ở cửa, cứ vẫy tay mãi cho đến khi họ khuất phía bên kia cổng. Người mẹ nào chẳng lo chuyện con cái qua đường, nhiễm bệnh. Nào lao, viêm phổi, bại liệt, sởi, quai bị... là những bệnh quái ác. Thời ấy, nhiều người chết trẻ.
Jim và Ellen, đầu chụm vào nhau, lực hút tình yêu kéo họ sát hơn, nói, cười, một đôi không lẫn vào đâu được. Say đắm nồng nàn. Mái tóc đen mượt của Ellen lòa xòa uốn quanh đôi tai nhỏ xíu dễ ghét. Nàng im lặng và bình thản như hằng nga.
“Em sẽ yêu anh mãi mãi?” Jim hỏi.
“Mãi mãi và mãi mãi,” Ellen quả quyết, xiết chặt tay anh.
Trên đường trở về họ đi tắt, băng qua cánh rừng già tháng Tám. Một lối tắt dài. Vẫn nói chuyện nhưng lời nói của họ rời rạc bởi những khoảng lặng, những giây phút nóng ran, lừng khừng đầy âu lo. Giữa một màu xanh thắm họ ngồi xuống chỗ bóng mát và hôn nhau trong đám dương xỉ, một cách ngây thơ. Họ đã hôn nhau như thế nhiều năm rồi.
*
Cuộc đời là một kỳ nghỉ hè cho đến khi Jim mười bảy tuổi. Lúc ấy Jim đi Cork với cha cho việc kinh doanh. Cork thật tráng lệ: thuyền bè nhấp nhô, những thánh đường uy nghi của thành phố cảng nhỏ nhắn xinh đẹp Cobh, rồi còn khách sạn Metropole. Sang trọng. Tiệc tối và món tráng miệng. Cà cạt đen, xì gà nâu. Rượu gin và nước khoáng nặn thêm tí chanh. Giờ ở Cork luôn là rượu gin không pha và kèm lát chanh làm nhạt nhòa hồi ức trong Jim. Chanh đắng.
Jim cùng bạn của cha. Một bữa tiệc nồng mùi son phấn. Cha và một người bạn bỏ về sớm. Cha nháy mắt, kiểu như đồng tình: trai tơ, sợ chi. Cũng không chắc lắm.
Jim quay cuồng theo cái dây chuyền-bông tai ấy tới sáng. Lên trên gác của căn nhà gỗ sồi, vào phòng, cô gái bảo chẳng có ai ở nhà còn Jim đã thấm say.
“Để anh đỡ em lên giường,” Jim nói, hiểu rõ luật chơi và biết khi nào có thể ăn gian.
Ellen mười sáu thoảng mùi của tình yêu và hoa hồng. Cô gái này hai mươi và nồng mùi rượu gin, trút xiêm y, vào phòng tắm. Jim đã gục ngã. Ellen, mười sáu thiên thần, cho anh tất cả trừ điều đó. Nàng quyết giữ cho đêm tân hôn. Jim muốn nhiều hơn thế. Ngọc ngà và thú tính.
Tội lỗi, quá tội lỗi, cùng đường tội lỗi, tất cả tại anh, Ellen ơi!
Cô tóc vàng đến Dublin với chàng Jim, người đã thành đàn ông và đang chìm trong mê đắm. Máu trên tuyết. Ellen mười bảy bị bỏ rơi như món đồ quá hạn.
“Anh không cần em nữa?”
“Không.”
Ellen cắn chặt môi. Cặp mắt ứa lệ đỏ hoe. Mặn đắng. Tâm hồn khô héo, Ellen đau đớn nói lời tạm biệt.
“Không. Anh không thích em.” - Jim tàn nhẫn bồi thêm.
Jim đã quyết định một cách lạnh lùng. Nàng Ellen tình phụ vẫn âm thầm chờ Jim, hy vọng chàng bớt tính trẻ con, chín chắn hơn.
*
Năm sau đó, anh dẫn cô đeo ngọc trai đi nghỉ, chẳng hề có lời tạm biệt Ellen, mười tám, cô đơn, xanh xao, vàng úa vì bệnh lao đang gặm nhấm lá phổi còn tình yêu phũ phàng làm tan nát trái tim nàng. Ellen trong trắng ngây thơ giờ tơi tả xác hoa tàn khô. Với nàng Ellen trinh nữ, mũ cô dâu là vòng hoa đầy gai nhọn và mạng che mặt được thêu bằng nước mắt.
Ellen ngã bệnh.
Ngày Jim trở về, những ngón tay run rẩy, co quắp và gương mặt già nua đẫm lệ của mẹ chào đón chàng.
“Tội nghiệp Ellen,” mẹ thều thào. Đau đớn, chua xót, tiếc thương.
Jim bừng tỉnh.
Quá muộn.
Máu đen đã ứa ra nơi khóe môi Ellen.
Những bông hoa băng giá trên mộ. Lá úa tan tác trong gió lạnh, bay đầy trời, lả tả trút xuống mảnh đất Ellen nằm, đắp thêm hay lấp sâu thân xác nàng trinh nữ?! Còn đâu nữa những nụ hôn ấm áp nồng nàn. Còn đâu nữa trái tim rộn rã chất ngất tình yêu. Ellen mười chín, nàng trinh nữ mười chín, mãi mãi mười chín, không bao giờ hai mươi. Mẹ phía sau quan tài, mẹ trong ngôi mộ của mình, về nơi chín suối. Và trời đổ mưa, mưa, mưa hơn năm mươi năm dài, không tạnh từ ngày ấy.
Người yêu vĩnh viễn rời xa!
*
Tiếng chuông đồng hồ. Đinh-boong. Một. Đinh-boong. Hai...
Jim vật vã mơ. Ông gọi tên nàng trong đêm vắng.
“Ellen?”
Bóng đổ thẳm sâu câm lặng như lời giã biệt khắc khoải yêu thương từ miệng người hấp hối. Nghĩa trang đá cẩm thạch hệt những đôi môi, lạnh băng. Sỏi đá rêu phong. Những kỉ niệm trở lại rời rạc nhưng sống động trong ông; ký ức choán lấy, lấp đầy và ám ảnh hiện tại. Rùng mình, run rẩy, Jim lảo đảo tiến về phía cửa sổ ngập nắng chiều. Xoa xoa bàn tay gân guốc. Cầu nguyện. Sau đó, ông làm món cà chua và thịt nguội. Ông mơ mơ màng màng cảnh xế chiều - bóng đêm, một nửa cuộc đời. Trên đài phát thanh một giọng nữ hát bản Four Last Songs của Richard Strauss. Không cần phải hiểu lời.
Nỗi buồn sao ngọt ngào đến thế. Ai nói điều đó nhỉ?
Hoàng hôn. Ông ngồi ngóng tiếng chim muông lúc mặt trời lặn. Không có gì để xem, ngoại trừ chim két và chim sẻ; không có gì để nghe ngoại trừ tiếng cánh bướm.
Rất lâu sau đó, đồng hồ trong phòng khách đổ mười hai tiếng. Đêm đến, nóng bức.
Trườn lên chiếc giường rộng, Jim tắt đèn rồi nhìn những cái bóng chen chúc lộn xộn trên mảng tường dán giấy hoa. Những vì sao hắt ánh lên gương mặt u ám già nua của ông. Trăng tháng Tám chiếu qua cửa sổ. Dịu nhẹ êm đềm như sự tĩnh lặng, âm thầm như hoa táo rơi, ngọt ngào như lúm đồng tiền trên má Ellen khi cười. Ellen đứng đó, bên cạnh giường ông cùng nụ cười mừng vui pha lẫn buồn tủi. Ellen thủy chung đang chờ đợi.
“Bây giờ anh có cần em không?”
Có! Lạy Chúa nhân từ - có!
Ông nói: “Giờ anh có thể đi rồi, Ellen, nếu em muốn. Rốt cuộc anh chết là đúng.”
“Em rất vui. Em đã chờ đợi suốt một thời gian dài đằng đẵng!”
Jim nâng mình, bỏ lại bảy mươi sáu năm trời trên chăn gối, bay vút qua ánh trăng với Ellen trong vòng tay, như sao chổi vào chốn vĩnh hằng trong khi chiếc đồng hồ ở phòng khách đã chết.
Mãi mãi và mãi mãi.
Nguyễn Trung dịch
Nguồn: eastoftheweb.com
(SH314/04-15)
LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.
L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.
Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.
William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.
LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.
LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.
Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.
LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...
L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.
L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.
LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.
LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.
PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.
An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.
VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.
Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.
K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.
LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.
LGT: Irving Stone (1903-1989), nhà văn Mỹ hiện đại, nổi tiếng trong nước và trên thế giới nhờ những kịch bản phim lịch sử, những tác phẩm về tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, nhất là những cuốn “Khát vọng cuộc sống” (Lust for Life) viết năm 1934, về Vincent van Gogh, danh hoạ Hà Lan, “Tê tái và Đê mê” (The Agony and the Ecstasy) viết năm 1961, về Michelangelo, danh hoạ và nghệ sĩ điêu khắc Italy, “Thuỷ thủ trên lưng ngựa” (Sailor on Horseback) về Jack London, nhà văn Mỹ lừng danh...).