A. J. MCKENNA (Anh)
Đó là sinh nhật của Jim Brennan. Ông thức giấc vào buổi sáng tháng Tám ẩm ướt này, giật mình bởi tiếng chim hót vang khắp khu vườn. Đầu óc rối bời, ông cứ nằm mãi, gắn ánh mắt vô hồn vào mảng giấy hoa dán tường đã bạc phếch, đối diện chiếc giường bừa bộn của ông, nơi mặt trời sưng sỉa hắt ánh hồng lên.
Minh họa: Nhím
“Hôm nay sinh nhật mình,” rốt cuộc ông nhớ ra. “Bảy sáu rồi. Nhanh thật.”
Ông trở dậy, đau mỏi khắp người. Trong bộ pyjama sọc, ông khó nhọc đến bên cửa sổ, đứng ngắm khu vườn. Có ối việc dồn lại nhưng đã quá trễ. Dạo này cỏ um tùm, giá đừng đau lưng. Ngoài vườn hồng ngập nắng cỏ cây như bừng tỉnh, cây ông lão vươn mình như đứa trẻ đang lớn còn luống cúc vạn thọ rực vàng khoe sắc.
“Hôm nay sinh nhật mình.”
Tiếng chó sủa vọng đến từ nhà bên. Một con mèo phóng lên bờ thành gắn mảnh thủy tinh lởm chởm rồi thu mình chỗ bóng cây táo rình lũ chim sẻ đang háo hức đón bình minh. Bên dưới cái lồng chim bị hỏng, một con chuột đang gặm mẩu bánh mì dở. Bóng đổ của bờ giậu khu vườn trở nên nhỏ thó co rút, thẹn thùng tan trong nắng mai và vì sao cuối cùng mất dấu khi vầng dương xuất hiện. Bắt đầu cho một ngày ngột ngạt tháng Tám.
*
Jimmy Brennan, bảy sáu tuổi, ngồi trong bếp. Im ắng. Toàn bộ căn nhà tĩnh lặng, những thứ quanh ông không còn chút sinh khí, mái trĩu nặng và lò đã tắt. Ông Jim đưa bàn tay gân guốc phủi những mảnh vụn bánh mì trên chiếc bàn nhựa và khi ông lê bước, bụi thêu dày vạt nắng. Ông lắng nghe sự trở mình thức tỉnh của một ngày mới, tiếng tích tắc hối hả từ chiếc đồng hồ trên tủ, tiếng lạch cạch gợi nhắc từ hòm thư...
Ông Jim lên nhà trên lấy các hóa đơn rồi xem tờ rơi quảng cáo hàng giảm giá và những kỳ nghỉ ở nước ngoài. Jim chưa từng rời khỏi Ai-len hay trải nghiệm những chuyến hải hành. Ông rướn đôi mắt kèm nhèm mệt mỏi của mình nhìn những bì thư cách một sải tay. Không hề có thiệp mừng sinh nhật để thở phào một cái cho đã - đời giờ ai nhớ?
Quay trở lại nhà bếp quen thuộc, ông rọc thư xem. Còn hơn không có gì - dù là giấy báo nợ thì ít nhất cũng có người liên lạc với ông. Xem chán, Jim nhìn ánh mặt trời hắt lại từ ấm trà cũ rồi bỏ những lá thư chẳng mấy hay ho lại đọc sau, ông đi châm thêm trà. Ông ngồi và nghĩ về sinh nhật xưa. Cuộc chè chén say sưa, hát hò và chúc tụng, người chết lâu rồi ai nhớ. Về một thời, đó là khi nào nhỉ?
“Thời gian như bóng câu...” - ông nói.
Ông đang nói với chính mình, hầu như ngày nào cũng vậy - ai sẽ nghe chứ? Đồng hồ trên phòng khách điểm giờ, Jim mệt mỏi đứng lên. Lại một ngày mới đến với ông. Mở rađiô, toàn tin xấu. Trẻ em chết, những cảnh đời đau đớn, bệnh tật, chiến tranh. Ông cười ra nước mắt khi quảng cáo chen vào. Thế giới trở nên điên loạn, tàn ác, vô cảm và dường chẳng ai nhận thấy. Ông chuyển đài, giọng ngoại quốc liến thoắng lảm nhảm trên sóng. Nói như lua canh, tra tấn người nghe về các vụ hiếp dâm trẻ em, chắc thế. Các phương tiện truyền thông khoái sỉ nhục người vô tội bằng những bản tin, những câu chuyện “nóng hổi”. Thời xưa khác xa: dường như yên tĩnh hơn và trẻ em có thể chơi trên phố. Thời xưa... đó là khi nào nhỉ? Thời nắm tay tung tăng hát. Ông lẩm nhẩm bản nhạc thiếu nhi:
Ring- a- ring- a- rosy!
Jim mỉm cười, nhận ra vở nhạc kịch Đám cưới Figaro của Mozart và vai nữ giả nam Cherubino đã cứu rỗi một buổi sáng u ám. Sau đó, ông thay đồ, đi dạo. Đội chiếc mũ len có lưỡi trai, ông chống gậy ra cửa trước và kiểm tra cửa nẻo. Mọi thứ đều chốt khóa kĩ. Khi căn nhà rệu rã phát ra âm thanh kẽo kẹt vào ban đêm, Jim nghĩ đến bọn trộm và run rẩy hình dung cảnh chúng lẻn vào khống chế ông.
Thật là một thế giới!
Đu đưa theo giai điệu bài hát, Jim mở cửa và thấy Ellen Kelly đứng đó với nụ cười rạng rỡ.
“Chúc mừng sinh nhật, Jim.”
Chẳng ngạc nhiên nữa, Jim mỉm cười đáp lại rồi thở dài vì thực ra Ellen không ở đó.
Ellen Kelly, mười bốn tuổi, tuần trước. Gần đây ông thấy Ellen luôn. Nàng đã đi sau ông suốt quãng đường đến cái thư viện yên tĩnh hôm qua và khi ông ngồi nghỉ trong Công viên Carolyn, cô đứng dưới bóng cây đợi ông.
“Em đã không quên,” Ellen nói.
“Anh biết, anh biết.”
“Anh sẽ ra ngoài chơi chứ?”
“Anh không thể Ellen. Em đã chết.”
Mặt trời nghiêng phố, nghỉ chân trên nhà Jim còn Ellen nhạt nhòa theo bóng nắng.
“Tội nghiệp Ellen,” Jim thì thầm buồn bã. “Tội nghiệp em yêu đã chết rồi.”
*
Jim tránh siêu thị. Nó quá phức tạp. Nhiều người đang cố trả tiền cho lẹ để về nhà. Trẻ nhỏ khò khè lên cơn hen suyễn. Đám nữ choai choai chảnh chọe thì oang oảng chuyện cần giải quyết gấp. Các cậu trẻ đeo vòng tai, hói đầu lấn tới, mắt mơn trớn từng đường cong. Không thèm liếc lại. Con gái đòi hỏi nhiều hơn thế. Xe đậu bát nháo, bon chen hết sức để kiếm ít tiền. Các bà nội trợ vội vã, khởi động, nhấn ga, khói xe khét lẹt, những người phụ nữ được giải phóng với rất ít sự thoải mái. Sự kiệt sức ở các siêu thị cùng quá nhiều sự lựa chọn. Quá lớn, quá hiện đại. Quá cô đơn với Jim.
Ông đến các cửa hàng nhỏ hơn, tán gẫu với người quen, mua sữa, trứng và một ổ bánh mì nhỏ nóng hổi. Tới một đoạn nữa, bên ngoài cửa hàng từ thiện, bà Barret ở số hai mươi chín gật đầu chào, hỏi:
“Ông khỏe không?” - bà nhìn ông đứng trong quầy vẻ săm soi.
“Tuyệt, ơn Chúa. Còn bà?”
“Không thể tốt hơn.”
Cuộc đời ngập ngụa lời lịch sự giả dối.
Lê chân qua những con phố ngột ngạt nóng bức, Jim trở về chỗ trú thân của ông già 76 tuổi.
*
Ông ngồi trên chiếc ghế bành trong phòng khách nhìn ra đường. Chuông đồng hồ điểm mười tiếng. Ngày còn dài phía trước, dài theo nỗi buồn bất tận của đời ông. Mười giờ sáng đáng sợ. Ông không có gì để làm còn các cô gái bên ngoài mặt mày sáng rỡ thì luôn vội vã, nắng trên đầu, thời gian trên tay. Những đôi chân nhún nhảy, vớ đen, váy ngắn, ngắn đến tội lỗi, gọi mời.
Rất mừng vì mình không còn trẻ nữa.
Jim khinh ghét thời gian này trong ngày. Quá nóng để dạo ra vườn, ngồi không cũng chán, chẳng nghĩ được điều gì hay ho ngoài việc lo bữa trưa. Ăn uống qua loa cho cả buổi chiều lê thê sầu rũ như đường vắng vô định. Jim thử đọc cái gì đó, nhưng có đeo gương vẫn thấy kèm nhèm, không rõ chữ.
“Ellen,” ông khe khẽ gọi và tên nàng vang vọng trong đầu ông như một hồi chuông.
Ellen Kelly, Kelly Ellen, Kellen Nelly.
Jim đùa vui cùng nàng. Mắt ông khép lại. Ông đang chìm vào cơn mơ thì nghe tiếng loảng xoảng từ cái nắp đồng của hộp thư vẳng đến. Jim chậm rãi tới trước, mở nhẹ cửa lớn. Ellen ở đó, như phép màu, mười lăm tuổi, trông thật đáng yêu và rạng ngời dưới vạt nắng chiều. Ellen Kelly, nét mặn nồng tinh khôi thiếu nữ và trong sáng hồn nhiên trẻ thơ.
“Anh không ra ngoài chơi sao, Jim?”
Từ phía sau, một cái bóng khác trong hành lang tối, mẹ của Jim, mỉm cười.
“Ellen yêu quý, nó mắc đi mua đồ hộ cô rồi.”
Jim, chàng trai mười sáu tuổi đang rạo rực niềm vui, mắc kẹt ở giữa hai phụ nữ, đành im lặng dẫu biết tâm hồn Ellen sẽ nhói đau.
“Vậy em sẽ theo anh,” Tính Ellen rất dễ thương, nàng luôn luôn làm vừa lòng mọi người. “Chúng mình sẽ cùng đi chợ. Như thế thì được chứ?”
Mẹ đồng ý. Bà yêu thương Ellen, coi cô bé hàng xóm ấy như con gái mình - một đứa con mà bà tới ngày tóc điểm bạc còn ao ước.
“Tất nhiên là được, cưng.”
Jim và Ellen đi ra đường trong khi mẹ đứng ở cửa, cứ vẫy tay mãi cho đến khi họ khuất phía bên kia cổng. Người mẹ nào chẳng lo chuyện con cái qua đường, nhiễm bệnh. Nào lao, viêm phổi, bại liệt, sởi, quai bị... là những bệnh quái ác. Thời ấy, nhiều người chết trẻ.
Jim và Ellen, đầu chụm vào nhau, lực hút tình yêu kéo họ sát hơn, nói, cười, một đôi không lẫn vào đâu được. Say đắm nồng nàn. Mái tóc đen mượt của Ellen lòa xòa uốn quanh đôi tai nhỏ xíu dễ ghét. Nàng im lặng và bình thản như hằng nga.
“Em sẽ yêu anh mãi mãi?” Jim hỏi.
“Mãi mãi và mãi mãi,” Ellen quả quyết, xiết chặt tay anh.
Trên đường trở về họ đi tắt, băng qua cánh rừng già tháng Tám. Một lối tắt dài. Vẫn nói chuyện nhưng lời nói của họ rời rạc bởi những khoảng lặng, những giây phút nóng ran, lừng khừng đầy âu lo. Giữa một màu xanh thắm họ ngồi xuống chỗ bóng mát và hôn nhau trong đám dương xỉ, một cách ngây thơ. Họ đã hôn nhau như thế nhiều năm rồi.
*
Cuộc đời là một kỳ nghỉ hè cho đến khi Jim mười bảy tuổi. Lúc ấy Jim đi Cork với cha cho việc kinh doanh. Cork thật tráng lệ: thuyền bè nhấp nhô, những thánh đường uy nghi của thành phố cảng nhỏ nhắn xinh đẹp Cobh, rồi còn khách sạn Metropole. Sang trọng. Tiệc tối và món tráng miệng. Cà cạt đen, xì gà nâu. Rượu gin và nước khoáng nặn thêm tí chanh. Giờ ở Cork luôn là rượu gin không pha và kèm lát chanh làm nhạt nhòa hồi ức trong Jim. Chanh đắng.
Jim cùng bạn của cha. Một bữa tiệc nồng mùi son phấn. Cha và một người bạn bỏ về sớm. Cha nháy mắt, kiểu như đồng tình: trai tơ, sợ chi. Cũng không chắc lắm.
Jim quay cuồng theo cái dây chuyền-bông tai ấy tới sáng. Lên trên gác của căn nhà gỗ sồi, vào phòng, cô gái bảo chẳng có ai ở nhà còn Jim đã thấm say.
“Để anh đỡ em lên giường,” Jim nói, hiểu rõ luật chơi và biết khi nào có thể ăn gian.
Ellen mười sáu thoảng mùi của tình yêu và hoa hồng. Cô gái này hai mươi và nồng mùi rượu gin, trút xiêm y, vào phòng tắm. Jim đã gục ngã. Ellen, mười sáu thiên thần, cho anh tất cả trừ điều đó. Nàng quyết giữ cho đêm tân hôn. Jim muốn nhiều hơn thế. Ngọc ngà và thú tính.
Tội lỗi, quá tội lỗi, cùng đường tội lỗi, tất cả tại anh, Ellen ơi!
Cô tóc vàng đến Dublin với chàng Jim, người đã thành đàn ông và đang chìm trong mê đắm. Máu trên tuyết. Ellen mười bảy bị bỏ rơi như món đồ quá hạn.
“Anh không cần em nữa?”
“Không.”
Ellen cắn chặt môi. Cặp mắt ứa lệ đỏ hoe. Mặn đắng. Tâm hồn khô héo, Ellen đau đớn nói lời tạm biệt.
“Không. Anh không thích em.” - Jim tàn nhẫn bồi thêm.
Jim đã quyết định một cách lạnh lùng. Nàng Ellen tình phụ vẫn âm thầm chờ Jim, hy vọng chàng bớt tính trẻ con, chín chắn hơn.
*
Năm sau đó, anh dẫn cô đeo ngọc trai đi nghỉ, chẳng hề có lời tạm biệt Ellen, mười tám, cô đơn, xanh xao, vàng úa vì bệnh lao đang gặm nhấm lá phổi còn tình yêu phũ phàng làm tan nát trái tim nàng. Ellen trong trắng ngây thơ giờ tơi tả xác hoa tàn khô. Với nàng Ellen trinh nữ, mũ cô dâu là vòng hoa đầy gai nhọn và mạng che mặt được thêu bằng nước mắt.
Ellen ngã bệnh.
Ngày Jim trở về, những ngón tay run rẩy, co quắp và gương mặt già nua đẫm lệ của mẹ chào đón chàng.
“Tội nghiệp Ellen,” mẹ thều thào. Đau đớn, chua xót, tiếc thương.
Jim bừng tỉnh.
Quá muộn.
Máu đen đã ứa ra nơi khóe môi Ellen.
Những bông hoa băng giá trên mộ. Lá úa tan tác trong gió lạnh, bay đầy trời, lả tả trút xuống mảnh đất Ellen nằm, đắp thêm hay lấp sâu thân xác nàng trinh nữ?! Còn đâu nữa những nụ hôn ấm áp nồng nàn. Còn đâu nữa trái tim rộn rã chất ngất tình yêu. Ellen mười chín, nàng trinh nữ mười chín, mãi mãi mười chín, không bao giờ hai mươi. Mẹ phía sau quan tài, mẹ trong ngôi mộ của mình, về nơi chín suối. Và trời đổ mưa, mưa, mưa hơn năm mươi năm dài, không tạnh từ ngày ấy.
Người yêu vĩnh viễn rời xa!
*
Tiếng chuông đồng hồ. Đinh-boong. Một. Đinh-boong. Hai...
Jim vật vã mơ. Ông gọi tên nàng trong đêm vắng.
“Ellen?”
Bóng đổ thẳm sâu câm lặng như lời giã biệt khắc khoải yêu thương từ miệng người hấp hối. Nghĩa trang đá cẩm thạch hệt những đôi môi, lạnh băng. Sỏi đá rêu phong. Những kỉ niệm trở lại rời rạc nhưng sống động trong ông; ký ức choán lấy, lấp đầy và ám ảnh hiện tại. Rùng mình, run rẩy, Jim lảo đảo tiến về phía cửa sổ ngập nắng chiều. Xoa xoa bàn tay gân guốc. Cầu nguyện. Sau đó, ông làm món cà chua và thịt nguội. Ông mơ mơ màng màng cảnh xế chiều - bóng đêm, một nửa cuộc đời. Trên đài phát thanh một giọng nữ hát bản Four Last Songs của Richard Strauss. Không cần phải hiểu lời.
Nỗi buồn sao ngọt ngào đến thế. Ai nói điều đó nhỉ?
Hoàng hôn. Ông ngồi ngóng tiếng chim muông lúc mặt trời lặn. Không có gì để xem, ngoại trừ chim két và chim sẻ; không có gì để nghe ngoại trừ tiếng cánh bướm.
Rất lâu sau đó, đồng hồ trong phòng khách đổ mười hai tiếng. Đêm đến, nóng bức.
Trườn lên chiếc giường rộng, Jim tắt đèn rồi nhìn những cái bóng chen chúc lộn xộn trên mảng tường dán giấy hoa. Những vì sao hắt ánh lên gương mặt u ám già nua của ông. Trăng tháng Tám chiếu qua cửa sổ. Dịu nhẹ êm đềm như sự tĩnh lặng, âm thầm như hoa táo rơi, ngọt ngào như lúm đồng tiền trên má Ellen khi cười. Ellen đứng đó, bên cạnh giường ông cùng nụ cười mừng vui pha lẫn buồn tủi. Ellen thủy chung đang chờ đợi.
“Bây giờ anh có cần em không?”
Có! Lạy Chúa nhân từ - có!
Ông nói: “Giờ anh có thể đi rồi, Ellen, nếu em muốn. Rốt cuộc anh chết là đúng.”
“Em rất vui. Em đã chờ đợi suốt một thời gian dài đằng đẵng!”
Jim nâng mình, bỏ lại bảy mươi sáu năm trời trên chăn gối, bay vút qua ánh trăng với Ellen trong vòng tay, như sao chổi vào chốn vĩnh hằng trong khi chiếc đồng hồ ở phòng khách đã chết.
Mãi mãi và mãi mãi.
Nguyễn Trung dịch
Nguồn: eastoftheweb.com
(SH314/04-15)
OTTO STEIGER (THỤY SĨ)Ai cũng biết rằng cái tên Ruđenxơ tượng trưng cho sức mạnh và lòng dũng cảm, vậy mà nhân vật của chúng ta lại là một người nhút nhát. Có thể nói là từ lúc lọt lòng: mặc cho bác sĩ hầm hừ doạ nạt và bà đỡ cố công thúc đẩy, mãi ông chẳng chịu ra cho. Điều này để lại dấu vết trên diện mạo của ông. Khi rốt cuộc ông cũng được sinh ra và nhìn thấy thế gian buồn khổ này, trông ông xấu xí quá lắm, còn cái đầu thì rõ là chiếc bắp cải chứ không ngoa.
SLAWOMIR MROZEKSlawomir Mrozek sinh ngày 26 tháng 6 năm 1930, là nhà văn, kịch tác gia và hoạ sĩ tranh biếm hoạ nổi tiếng của Ba Lan. Năm 1953 tập truyện ngắn đầu tay của ông ra đời và bốn năm sau đó tập truyện Con voi được nhận giải thưởng của Tạp chí văn hoá.
ERNEST HEMINGWAYKhông ai có thể chỉ cho mọi người biết mình là thế nào rõ rệt hơn chính tôi làm việc đó. Không ai có thể giấu mình khỏi anh em đồng loại, bởi vì mỗi hành vi của con người, mỗi hành động của sáng tạo đều nói về tác giả của nó. Tôi kể hết cho mọi người biết mọi điều về tôi trong các cuốn sách của mình.
ANDRA NEYBURGA ()LGT: Nữ nhà văn Andra Neyburga sinh năm 1957. Tốt nghiệp Viện Hàn lâm Nghệ thuật Quốc gia Latvia, là người sáng lập tạp chí tiên phong của giới trẻ Latvia Mạch nguồn, chuyên viên tư vấn của Hội Nhà văn Latvia, phụ trách Hội tác giả trẻ (1987-1989). Tác phẩm của cô đã được dịch ra nhiều thứ tiếng Châu Âu như Đức, Anh, Pháp, Nga...
ENYO IOGY TESHANSKY ()(Truyện cổ - có thể cho cả người lớn đọc)Mơ thường trái hẳn với thực, chẳng phải vậy sao? Trong mơ những mong ước thiêng liêng nhất của chúng ta đều được thực hiện. Khi ta mơ thấy được vàng ấy là khi trong đời ta không một xu dính túi. Nói gọn lại, tương tự như ví dụ này, bạn có thể dễ dàng hình dung tình hình chính trị và xã hội của Xứ Mơ là thế nào.
SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)Tôi ngồi trong quán cà phê, cũ, vắng, và đang uống cốc nước chè của mình, bỗng tôi thấy có một vật mà ta có thể gọi là người tí hon đang đi ngang qua mặt bàn.
Mẹ tôi làm nghề phù thủy. Bà có thể chế thứ thuốc nước để làm sáng mắt hay để làm nóng dạ con. Bà biết cách thụt rửa âm đạo để có con trai như ý muốn hay chế một liều thuốc độc để tẩy những đứa trẻ không được mong muốn sinh ra. Ngoại trừ những lúc cấp bách, bà tự hái thuốc và lấy những phần thân thể động vật, tôi không được phép giúp bà.
LGT: Tác giả có cách dẫn dắt truyện bất ngờ, lôi cuốn nhờ chọn lựa một chi tiết vừa là nhan đề hay: “Cánh cửa sổ mở”. Từ đó trộn lẫn thực tại với ảo giác qua lời “bịa như thật” với lôgích tưởng tượng tuyệt vời. Điểm đặc sắc là cách xây dựng cấu trúc nhân vật theo kiểu thôi miên nạn nhân bị suy nhược thần kinh của một cô gái tinh nghịch có trí tưởng tượng bịa chuyện lạ kỳ.Chính việc lựa chọn điểm nhìn trần thật bên trong của nhân vật Framton dọc suốt 2/3 truyện với sự ngây thơ dễ tin của anh tạo nên một kết thúc bất ngờ hài hước. BỬU NAM giới thiệu
(tiếp theo phần 1)
Hanan Al Shaykh sinh ra trong một gia đình theo đạo Hồi ở Libăng. Bà lớn lên ở Beirut và sau đó học tại Cairo; là một phóng viên có tiếng ở Beirut và Cairo . Bà lấy chồng là một kỹ sư người Libăng theo đạo Thiên chúa giáo và có hai con. Từ năm 1982 do nội chiến nên họ chuyển tới sống ở London . Bà đã viết ba tiểu thuyết được hoan nghênh nồng nhiệt, Câu chuyện của Zahra, Những người đàn bà của cát và Myrrh. Truyện Myrrh đã được thời báo Publisher's Weekly chọn là một trong số 50 cuốn sách hay nhất năm 1992, và gần đây nhất bà xuất bản cuốn Những nữ học giả ở Beirut . Bà còn là tác giả của một số tập truyện ngắn.
- Coi nào, tạm biệt Jerry! Chăm sóc tốt bà chủ nhé. Phải vâng lời, đừng sủa bậy, đừng có hơi một tí là cáu nghe chưa. Tao sẽ báo cho mày khi nào tao về và mày phải chịu trách nhiệm cái nhà này khi tao vắng mặt đó.
Maisa thích những cái cây đó dù cô không biết chúng tên gì và cũng không tính xem chúng có bao nhiêu nữa. Các thân cây quyện vào nhau rồi lại tách ra, tán lá xoè xuống trải rộng trên mặt đất, những cái lá hình nón xào xạc trong cơn gió chiều.
LTS: Jhumpa Lahiri, sinh ở London trong một gia đình người Belgali (Ấn Độ), lớn lên ở đảo Rhode, hiện sống tại New York . Truyện “Người dịch bệnh” được rút từ tập truyện ngắn Interpreter of Maladies là tác phẩm đầu tay của cô, đã được giải Pulitzer 2000 cho thể loại truyện hư cấu, giải của báo New Yorker cho sách đầu tay hay nhất. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu.
1Anh trở về nhà dọc theo con phố của một thành phố nhỏ ở Czech, nơi anh đã mấy năm sống bình lặng, quen chịu những người hàng xóm hay chuyện và cảnh tục tằn đơn điệu tại công sở - anh bước đi không để ý gì xung quanh (như người ta đi trên con đường đã qua lại trăm lần) và suýt nữa thì ngang qua chị mà không biết.
“Chính anh đã cho em biết tình yêu là gì”. Herman Hesse
Ở miền Nam Thái Bình Dương xa xôi kia có hai hòn đảo nằm cạnh nhau tên là Nurabandi và Kiniwata.
Một truyện ngắn của nhà văn Mỹ, đoạt giải Nobel đầu tiên của nền văn học này vào năm 1930, nhà văn Sinclair Lewis, với truyện “Ông trẻ Axelbrod vào Đại học” do dịch giả và nhà nghiên cứu văn học Phan Quang Định dịch. Các bạn sẽ thưởng thức tài năng viết truyện ngắn của nhà văn này, bên cạnh tài năng viết tiểu thuyết của ông.