Của hồi môn

16:41 13/05/2008
Ở miền Nam Thái Bình Dương xa xôi kia có hai hòn đảo nằm cạnh nhau tên là Nurabandi và Kiniwata.

Cư dân trên hai đảo này được truyền tụng là rất tốt bụng và rất tuyệt vời. Đến nay họ vẫn còn lưu giữ một tập tục bất hủ về việc trao của hồi môn cho nhà gái khi chàng trai đến cầu hôn.
Johnny Lingo sống trên đảo Nurabandi. Anh rất giàu có, rất đẹp trai và có lẽ cũng là nhà doanh nghiệp giỏi nhất trên đảo. Ai ai cũng đều công nhận rằng chàng trai trẻ Johnny này có thể lấy bất kỳ cô gái trẻ đẹp nào ở vùng này.
Nhưng Johnny lại chỉ để mắt đến Sarita ở đảo Kiniwata, phải mất nhiều công sức người ta mới nhận ra điều này.
Sarita lại chỉ là một cô gái bình thường không có gì đặc sắc. Lúc cô đi, hai vai so lại, đầu cúi xuống.
Dầu vậy, Johnny rất yêu Sarita, anh đã hẹn đến gặp cha của Sarita - ông Sam Karoo - để cầu hôn và bàn về chuyện của hồi môn. Lúc bấy giờ của hồi môn được tính bằng những con bò bởi loài vật này đóng vai trò rất quan trọng ở cái đảo nhỏ dọc miền Thái Bình Dương này. Từ xưa đến giờ, chỉ một số ít các cô gái đẹp nhất vùng Nam Thái Bình Dương này mới có của hồi môn là bốn con bò, hiếm ai có được năm con.
Johnny Lingo là một thương gia sắc sảo nhất trên đảo Nurabandi còn cha của Sarita lại là người tệ nhất ở trên đảo Kiniwata. Biết vậy, đêm trước ngày lễ trọng đại ấy, Sam Karoo lo lắng triệu tập gia đình lại và vạch ra phương án rằng: ông sẽ đòi Johnny ba con bò nhưng nếu biết chắc Johnny trả một con thì họ sẽ giữ giá hai con không nhượng bộ nữa.
Ngày hôm sau, ngay từ lúc bắt đầu buổi gặp mặt ấy, Johnny Lingo nhìn thẳng vào mắt Sam Karoo và nói bình thản “ Cháu xin kính dâng bác tám con bò để hỏi cưới con gái bác Sarita”.
Ông Sam lắp bắp mãi mới thốt lên lời đồng ý. Ngay sau đó, lễ cưới được tiến hành long trọng, nhưng không ai có thể hiểu nổi tại sao Johnny lại trả đến tám con bò cho Sarita.
Sáu tháng sau, một du khách người Mỹ Pat McGerr, một nhà văn thiên tài đến gặp Johnny Lingo tại căn phòng lộng lẫy của anh ở Nurabandi và hỏi về chuyện tám con bò.
Trước đó, nhà văn đã đến đảo Kiniwata và nghe dân làng kháo nhau rằng ông già Sam ngốc nghếch đấy lại lừa được cả chàng Johnny khôn ngoan lấy tám con bò cho cô Sarita tầm thường ấy.
Nhưng ở Nurabandi, không ai dám cười Johnny Lingo cả bởi mọi người rất kính nể anh. Lúc nhà văn đến gặp Jonny, đôi mắt chàng tân lang này sáng lên khi hỏi chuyện ông.
“Tôi có nghe người ta nói về tôi ở hòn đảo ấy. Vợ tôi đến từ đấy mà”
“Vâng, tôi biết”. Nhà văn Mỹ nói.
“Thế thì nói cho tôi biết họ nói gì về tôi nào?”. Johnny hỏi.
Nhà văn trổ tài ngoại giao đáp: “ Ồ, họ nói ông kết hôn với Sarita vào thời điểm tươi đẹp nhất”.
Nhưng Johnny ép nhà văn phải nói thật: “ Họ nói anh trả tám con bò cho vợ anh và họ thắc mắc tại sao anh lại làm vậy”.
Ngay lúc đó, người phụ nữ đẹp nhất trong những người mà nhà văn đã từng gặp bước vào đặt bình hoa lên bàn. Dáng người dong dỏng cao, vai vuông vắn cằm thẳng và ánh mắt nồng đượm khi cô nhìn Johnny.
“Đây là vợ tôi, Sarita”. Johnny vui vẻ nói. Nhà văn vẫn chưa hết ngỡ ngàng lúc Sarita xin cáo biệt. Johnny bắt đầu lí giải:
“Ông có biết người vợ nghĩ thế nào khi biết chồng mình lấy mình với giá thấp nhất không? Và rồi sau đó khi các bà ngồi tụ tập lại khoe khoang về của hồi môn của họ. Người thì nói bốn, kẻ nói ba. Nhưng người có chỉ một con thì sẽ cảm thấy như thế nào đây?”. Johnny nói “ Tôi sẽ không để điều này xảy ra với Sarita của tôi. Tôi muốn Sarita được hạnh phúc nhưng còn hơn thế nữa. Ông nói là nàng trông khác xa với những gì người ta mô tả phải không? Đúng đấy. Có nhiều thứ làm thay đổi người phụ nữ lắm chứ.
“Những tác động bên trong lẫn bên ngoài, nhưng điều quan trọng nhất là nàng nghĩ về mình như thế nào. Ở Kiniwata, Sarita nghĩ rằng nàng không đáng giá gì cả nhưng giờ này nàng biết mình đáng giá hơn bất kỳ một phụ nữ nào trên những hòn đảo này”.
Johnny ngừng một lúc rồi tiếp: “Ngay từ lúc đầu tôi đã muốn cưới Sarita rồi. Tôi yêu nàng và chỉ yêu nàng mà thôi. Tuy nhiên, tôi cũng muốn có một người vợ đáng giá tám con bò và như ông biết đấy, giấc mơ của tôi đã trở thành hiện thực.
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH dịch


RON EXUM
(nguồn: TCSH số 146 - 04 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Ivan Sergeyevich Turgenev sinh ngày 28 tháng 10 năm 1818 ở Oryol, Nga. Ông lớn hơn Dostoyevsky 3 tuổi và lớn hơn Tolstoy 10 tuổi. Ba người này là những nhà văn lớn nhất của Nga trong hậu bán thế kỷ thứ 19.

  • “Loài đàn bà” - một trong những tác phẩm được đăng tải sau chiến tranh thế giới II, thời kỳ đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Dazai Osamu. Cũng như nhiều tác phẩm khác, với phong cách tự thuật và lối viết tràn thường thấy, ông diễn tả những suy tư về phụ nữ, tình yêu và mối quan hệ của con người trong xã hội, tuy mang sắc thái bi quan nhưng chứa đựng góc nhìn sâu sắc về bản chất con người.                       Nguyễn Thống Nhất dịch và giới thiệu

  • Mary E.Wilkins Freeman (1852 - 1930) sinh ra ở Randolph, Massachusetts, bà lớn lên trong sự quen thuộc mật thiết với hoàn cảnh kinh tế suy thoái và hệ thống niềm tin nghiêm khắc của người theo chủ nghĩa Calvin đã hình thành nên cuộc sống của phần lớn các nhân vật của bà.

  • Nhà văn Anh, Rudyard Kipling sinh năm 1865 tại Bombay, Ấn Độ (lúc bấy giờ là thuộc địa của Anh). Cha ông là chuyên gia về lịch sử nghệ thuật Ấn Độ. Rudyard Kipling mất năm 1936 tại Anh; mộ ông hiện nằm tại tu viện Westminster. Thời trai trẻ, ông sống ở Ấn Độ và hàng năm, có đi đến Himalaya. Rudyard Kipling được trao giải Nobel văn học năm 1907 cùng nhiều giải thưởng và bằng cấp danh dự của các đại học tiếng tăm ở Anh, Pháp, Canada và hoàng gia Anh.             Trần Ngọc Hồ Trường giới thiệu và dịch

  • Dazai Osamu (1909 - 1948) tác gia kiệt xuất, đại diện cho “trường phái vô lại”, đó là một nhóm các nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy, trong nền văn học cận - hiện đại Nhật Bản. Phần lớn những tác phẩm của ông đều mang tính chất tự thuật với văn phong u mặc, diễn tả tâm trạng bế tắc trong thời kỳ hậu chiến và bi kịch cá nhân, đồng thời cũng dí dỏm, hài hước một cách cay đắng.

  • Han Kang được trao giải Nobel Văn học năm 2024 do có “văn xuôi đầy chất thơ mãnh liệt đối mặt với những tổn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của đời người”.


  • XERGÂY ĐÔVLATÔP

  • SHERWOOD ANDERSON

  • WILLIAM SOMERSET MAUGHAM

    William Somerset Maugham là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh năm 1874 tại Paris, Pháp, và là con của một cố vấn pháp luật trong tòa đại sứ Anh tại Paris.

  • Okamoto Kanoko (1889 - 1939) nhà thơ Tanka và là nhà nghiên cứu Phật giáo. Sinh ra trong một gia đình giàu có tại Tokyo, sau khi tốt nghiệp trường nữ sinh Atomi, bà theo học nữ tác gia Yosano Akiko và đã công bố một số bài thơ Tanka.

  • Nhà văn Mỹ Sarah Orne Jewett sinh năm 1849 và mất năm 1909. Bà là nhà tiểu thuyết, nhà thơ và nhà văn viết truyện ngắn (Short Story Writer). Bang Maine là không gian chính trong tác phẩm của bà. Văn chương của bà sớm đề cập đến các vấn đề sinh thái và các vấn đề xã hội khác, có tính vùng miền.
                        Trần Ngọc Hồ Trường dịch và giới thiệu

  • C. J. MCCARTHY

    Cormac McCarthy là nhà văn người Mỹ, ông nổi tiếng với phong cách viết bạo liệt và u ám. McCarthy chuyên viết tiểu thuyết và được giới hàn lâm đánh giá cao ở ngay tiểu thuyết đầu tiên, The Orchard Keeper (1965), nhưng ông không thành công với độc giả đại chúng.


  • FERNANDO SORRENTINO

  • Jon Fosse là kịch gia đương đại, nổi danh với tặng thưởng Nobel văn chương 2023. Số lượng truyện ngắn đã xuất bản không nhiều, Jon Fosse vẫn ghi dấu với một phong cách độc đáo. Người em gái nhỏ (Søster) xuất bản năm 2000, bản dịch Anh ngữ in trong tập Scenes from a childhood (Damion Searls dịch) năm 2018.

  • JOSEPHIN JOHNSON
                       (Mỹ)

    Gnark ngồi trong buồng ngủ, mắt nhìn những tấm giấy phủ tường. Một cảm giác là lạ xâm chiếm lòng anh.

  • SRI DAORUANG

    Nhà văn Sri Daoruang tên thật là Wanna Sawasdsri, sinh năm 1943, quê quán ở Phitsanulok, Bắc Bangkok, Thái Lan. Bà là tác giả của tuyển tập Quỷ truyện Dân gian (Tales of the Demon Folk, 1984).

  • HENRI TROYAT

    LTS. Henri Troyat tên thật là Lev Tarassov sinh năm 1911 tại Moskva. Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp. Giải thưởng văn học đầu tiên với tác phẩm "Faux jours" (1935). Ông đã xuất bản trên 20 tác phẩm tiểu thuyết và truyện ngắn. Những tác phẩm được dư luận đặc biệt chú ý như bộ ba tiểu thuyết "Tant que la terre durera" (1947), "Le sac et la cendre" (1948) và "Etrangers sur la terre" (1950) hoặc như "La lumière des Justes"... Ông còn viết cả kịch bản văn học. Truyện ngắn "Cơn choáng" (Le vertige) lấy từ tập "La Fosse Commune" xuất bản năm 1986.