A. J. MCKENNA (Anh)
Đó là sinh nhật của Jim Brennan. Ông thức giấc vào buổi sáng tháng Tám ẩm ướt này, giật mình bởi tiếng chim hót vang khắp khu vườn. Đầu óc rối bời, ông cứ nằm mãi, gắn ánh mắt vô hồn vào mảng giấy hoa dán tường đã bạc phếch, đối diện chiếc giường bừa bộn của ông, nơi mặt trời sưng sỉa hắt ánh hồng lên.
Minh họa: Nhím
“Hôm nay sinh nhật mình,” rốt cuộc ông nhớ ra. “Bảy sáu rồi. Nhanh thật.”
Ông trở dậy, đau mỏi khắp người. Trong bộ pyjama sọc, ông khó nhọc đến bên cửa sổ, đứng ngắm khu vườn. Có ối việc dồn lại nhưng đã quá trễ. Dạo này cỏ um tùm, giá đừng đau lưng. Ngoài vườn hồng ngập nắng cỏ cây như bừng tỉnh, cây ông lão vươn mình như đứa trẻ đang lớn còn luống cúc vạn thọ rực vàng khoe sắc.
“Hôm nay sinh nhật mình.”
Tiếng chó sủa vọng đến từ nhà bên. Một con mèo phóng lên bờ thành gắn mảnh thủy tinh lởm chởm rồi thu mình chỗ bóng cây táo rình lũ chim sẻ đang háo hức đón bình minh. Bên dưới cái lồng chim bị hỏng, một con chuột đang gặm mẩu bánh mì dở. Bóng đổ của bờ giậu khu vườn trở nên nhỏ thó co rút, thẹn thùng tan trong nắng mai và vì sao cuối cùng mất dấu khi vầng dương xuất hiện. Bắt đầu cho một ngày ngột ngạt tháng Tám.
*
Jimmy Brennan, bảy sáu tuổi, ngồi trong bếp. Im ắng. Toàn bộ căn nhà tĩnh lặng, những thứ quanh ông không còn chút sinh khí, mái trĩu nặng và lò đã tắt. Ông Jim đưa bàn tay gân guốc phủi những mảnh vụn bánh mì trên chiếc bàn nhựa và khi ông lê bước, bụi thêu dày vạt nắng. Ông lắng nghe sự trở mình thức tỉnh của một ngày mới, tiếng tích tắc hối hả từ chiếc đồng hồ trên tủ, tiếng lạch cạch gợi nhắc từ hòm thư...
Ông Jim lên nhà trên lấy các hóa đơn rồi xem tờ rơi quảng cáo hàng giảm giá và những kỳ nghỉ ở nước ngoài. Jim chưa từng rời khỏi Ai-len hay trải nghiệm những chuyến hải hành. Ông rướn đôi mắt kèm nhèm mệt mỏi của mình nhìn những bì thư cách một sải tay. Không hề có thiệp mừng sinh nhật để thở phào một cái cho đã - đời giờ ai nhớ?
Quay trở lại nhà bếp quen thuộc, ông rọc thư xem. Còn hơn không có gì - dù là giấy báo nợ thì ít nhất cũng có người liên lạc với ông. Xem chán, Jim nhìn ánh mặt trời hắt lại từ ấm trà cũ rồi bỏ những lá thư chẳng mấy hay ho lại đọc sau, ông đi châm thêm trà. Ông ngồi và nghĩ về sinh nhật xưa. Cuộc chè chén say sưa, hát hò và chúc tụng, người chết lâu rồi ai nhớ. Về một thời, đó là khi nào nhỉ?
“Thời gian như bóng câu...” - ông nói.
Ông đang nói với chính mình, hầu như ngày nào cũng vậy - ai sẽ nghe chứ? Đồng hồ trên phòng khách điểm giờ, Jim mệt mỏi đứng lên. Lại một ngày mới đến với ông. Mở rađiô, toàn tin xấu. Trẻ em chết, những cảnh đời đau đớn, bệnh tật, chiến tranh. Ông cười ra nước mắt khi quảng cáo chen vào. Thế giới trở nên điên loạn, tàn ác, vô cảm và dường chẳng ai nhận thấy. Ông chuyển đài, giọng ngoại quốc liến thoắng lảm nhảm trên sóng. Nói như lua canh, tra tấn người nghe về các vụ hiếp dâm trẻ em, chắc thế. Các phương tiện truyền thông khoái sỉ nhục người vô tội bằng những bản tin, những câu chuyện “nóng hổi”. Thời xưa khác xa: dường như yên tĩnh hơn và trẻ em có thể chơi trên phố. Thời xưa... đó là khi nào nhỉ? Thời nắm tay tung tăng hát. Ông lẩm nhẩm bản nhạc thiếu nhi:
Ring- a- ring- a- rosy!
Jim mỉm cười, nhận ra vở nhạc kịch Đám cưới Figaro của Mozart và vai nữ giả nam Cherubino đã cứu rỗi một buổi sáng u ám. Sau đó, ông thay đồ, đi dạo. Đội chiếc mũ len có lưỡi trai, ông chống gậy ra cửa trước và kiểm tra cửa nẻo. Mọi thứ đều chốt khóa kĩ. Khi căn nhà rệu rã phát ra âm thanh kẽo kẹt vào ban đêm, Jim nghĩ đến bọn trộm và run rẩy hình dung cảnh chúng lẻn vào khống chế ông.
Thật là một thế giới!
Đu đưa theo giai điệu bài hát, Jim mở cửa và thấy Ellen Kelly đứng đó với nụ cười rạng rỡ.
“Chúc mừng sinh nhật, Jim.”
Chẳng ngạc nhiên nữa, Jim mỉm cười đáp lại rồi thở dài vì thực ra Ellen không ở đó.
Ellen Kelly, mười bốn tuổi, tuần trước. Gần đây ông thấy Ellen luôn. Nàng đã đi sau ông suốt quãng đường đến cái thư viện yên tĩnh hôm qua và khi ông ngồi nghỉ trong Công viên Carolyn, cô đứng dưới bóng cây đợi ông.
“Em đã không quên,” Ellen nói.
“Anh biết, anh biết.”
“Anh sẽ ra ngoài chơi chứ?”
“Anh không thể Ellen. Em đã chết.”
Mặt trời nghiêng phố, nghỉ chân trên nhà Jim còn Ellen nhạt nhòa theo bóng nắng.
“Tội nghiệp Ellen,” Jim thì thầm buồn bã. “Tội nghiệp em yêu đã chết rồi.”
*
Jim tránh siêu thị. Nó quá phức tạp. Nhiều người đang cố trả tiền cho lẹ để về nhà. Trẻ nhỏ khò khè lên cơn hen suyễn. Đám nữ choai choai chảnh chọe thì oang oảng chuyện cần giải quyết gấp. Các cậu trẻ đeo vòng tai, hói đầu lấn tới, mắt mơn trớn từng đường cong. Không thèm liếc lại. Con gái đòi hỏi nhiều hơn thế. Xe đậu bát nháo, bon chen hết sức để kiếm ít tiền. Các bà nội trợ vội vã, khởi động, nhấn ga, khói xe khét lẹt, những người phụ nữ được giải phóng với rất ít sự thoải mái. Sự kiệt sức ở các siêu thị cùng quá nhiều sự lựa chọn. Quá lớn, quá hiện đại. Quá cô đơn với Jim.
Ông đến các cửa hàng nhỏ hơn, tán gẫu với người quen, mua sữa, trứng và một ổ bánh mì nhỏ nóng hổi. Tới một đoạn nữa, bên ngoài cửa hàng từ thiện, bà Barret ở số hai mươi chín gật đầu chào, hỏi:
“Ông khỏe không?” - bà nhìn ông đứng trong quầy vẻ săm soi.
“Tuyệt, ơn Chúa. Còn bà?”
“Không thể tốt hơn.”
Cuộc đời ngập ngụa lời lịch sự giả dối.
Lê chân qua những con phố ngột ngạt nóng bức, Jim trở về chỗ trú thân của ông già 76 tuổi.
*
Ông ngồi trên chiếc ghế bành trong phòng khách nhìn ra đường. Chuông đồng hồ điểm mười tiếng. Ngày còn dài phía trước, dài theo nỗi buồn bất tận của đời ông. Mười giờ sáng đáng sợ. Ông không có gì để làm còn các cô gái bên ngoài mặt mày sáng rỡ thì luôn vội vã, nắng trên đầu, thời gian trên tay. Những đôi chân nhún nhảy, vớ đen, váy ngắn, ngắn đến tội lỗi, gọi mời.
Rất mừng vì mình không còn trẻ nữa.
Jim khinh ghét thời gian này trong ngày. Quá nóng để dạo ra vườn, ngồi không cũng chán, chẳng nghĩ được điều gì hay ho ngoài việc lo bữa trưa. Ăn uống qua loa cho cả buổi chiều lê thê sầu rũ như đường vắng vô định. Jim thử đọc cái gì đó, nhưng có đeo gương vẫn thấy kèm nhèm, không rõ chữ.
“Ellen,” ông khe khẽ gọi và tên nàng vang vọng trong đầu ông như một hồi chuông.
Ellen Kelly, Kelly Ellen, Kellen Nelly.
Jim đùa vui cùng nàng. Mắt ông khép lại. Ông đang chìm vào cơn mơ thì nghe tiếng loảng xoảng từ cái nắp đồng của hộp thư vẳng đến. Jim chậm rãi tới trước, mở nhẹ cửa lớn. Ellen ở đó, như phép màu, mười lăm tuổi, trông thật đáng yêu và rạng ngời dưới vạt nắng chiều. Ellen Kelly, nét mặn nồng tinh khôi thiếu nữ và trong sáng hồn nhiên trẻ thơ.
“Anh không ra ngoài chơi sao, Jim?”
Từ phía sau, một cái bóng khác trong hành lang tối, mẹ của Jim, mỉm cười.
“Ellen yêu quý, nó mắc đi mua đồ hộ cô rồi.”
Jim, chàng trai mười sáu tuổi đang rạo rực niềm vui, mắc kẹt ở giữa hai phụ nữ, đành im lặng dẫu biết tâm hồn Ellen sẽ nhói đau.
“Vậy em sẽ theo anh,” Tính Ellen rất dễ thương, nàng luôn luôn làm vừa lòng mọi người. “Chúng mình sẽ cùng đi chợ. Như thế thì được chứ?”
Mẹ đồng ý. Bà yêu thương Ellen, coi cô bé hàng xóm ấy như con gái mình - một đứa con mà bà tới ngày tóc điểm bạc còn ao ước.
“Tất nhiên là được, cưng.”
Jim và Ellen đi ra đường trong khi mẹ đứng ở cửa, cứ vẫy tay mãi cho đến khi họ khuất phía bên kia cổng. Người mẹ nào chẳng lo chuyện con cái qua đường, nhiễm bệnh. Nào lao, viêm phổi, bại liệt, sởi, quai bị... là những bệnh quái ác. Thời ấy, nhiều người chết trẻ.
Jim và Ellen, đầu chụm vào nhau, lực hút tình yêu kéo họ sát hơn, nói, cười, một đôi không lẫn vào đâu được. Say đắm nồng nàn. Mái tóc đen mượt của Ellen lòa xòa uốn quanh đôi tai nhỏ xíu dễ ghét. Nàng im lặng và bình thản như hằng nga.
“Em sẽ yêu anh mãi mãi?” Jim hỏi.
“Mãi mãi và mãi mãi,” Ellen quả quyết, xiết chặt tay anh.
Trên đường trở về họ đi tắt, băng qua cánh rừng già tháng Tám. Một lối tắt dài. Vẫn nói chuyện nhưng lời nói của họ rời rạc bởi những khoảng lặng, những giây phút nóng ran, lừng khừng đầy âu lo. Giữa một màu xanh thắm họ ngồi xuống chỗ bóng mát và hôn nhau trong đám dương xỉ, một cách ngây thơ. Họ đã hôn nhau như thế nhiều năm rồi.
*
Cuộc đời là một kỳ nghỉ hè cho đến khi Jim mười bảy tuổi. Lúc ấy Jim đi Cork với cha cho việc kinh doanh. Cork thật tráng lệ: thuyền bè nhấp nhô, những thánh đường uy nghi của thành phố cảng nhỏ nhắn xinh đẹp Cobh, rồi còn khách sạn Metropole. Sang trọng. Tiệc tối và món tráng miệng. Cà cạt đen, xì gà nâu. Rượu gin và nước khoáng nặn thêm tí chanh. Giờ ở Cork luôn là rượu gin không pha và kèm lát chanh làm nhạt nhòa hồi ức trong Jim. Chanh đắng.
Jim cùng bạn của cha. Một bữa tiệc nồng mùi son phấn. Cha và một người bạn bỏ về sớm. Cha nháy mắt, kiểu như đồng tình: trai tơ, sợ chi. Cũng không chắc lắm.
Jim quay cuồng theo cái dây chuyền-bông tai ấy tới sáng. Lên trên gác của căn nhà gỗ sồi, vào phòng, cô gái bảo chẳng có ai ở nhà còn Jim đã thấm say.
“Để anh đỡ em lên giường,” Jim nói, hiểu rõ luật chơi và biết khi nào có thể ăn gian.
Ellen mười sáu thoảng mùi của tình yêu và hoa hồng. Cô gái này hai mươi và nồng mùi rượu gin, trút xiêm y, vào phòng tắm. Jim đã gục ngã. Ellen, mười sáu thiên thần, cho anh tất cả trừ điều đó. Nàng quyết giữ cho đêm tân hôn. Jim muốn nhiều hơn thế. Ngọc ngà và thú tính.
Tội lỗi, quá tội lỗi, cùng đường tội lỗi, tất cả tại anh, Ellen ơi!
Cô tóc vàng đến Dublin với chàng Jim, người đã thành đàn ông và đang chìm trong mê đắm. Máu trên tuyết. Ellen mười bảy bị bỏ rơi như món đồ quá hạn.
“Anh không cần em nữa?”
“Không.”
Ellen cắn chặt môi. Cặp mắt ứa lệ đỏ hoe. Mặn đắng. Tâm hồn khô héo, Ellen đau đớn nói lời tạm biệt.
“Không. Anh không thích em.” - Jim tàn nhẫn bồi thêm.
Jim đã quyết định một cách lạnh lùng. Nàng Ellen tình phụ vẫn âm thầm chờ Jim, hy vọng chàng bớt tính trẻ con, chín chắn hơn.
*
Năm sau đó, anh dẫn cô đeo ngọc trai đi nghỉ, chẳng hề có lời tạm biệt Ellen, mười tám, cô đơn, xanh xao, vàng úa vì bệnh lao đang gặm nhấm lá phổi còn tình yêu phũ phàng làm tan nát trái tim nàng. Ellen trong trắng ngây thơ giờ tơi tả xác hoa tàn khô. Với nàng Ellen trinh nữ, mũ cô dâu là vòng hoa đầy gai nhọn và mạng che mặt được thêu bằng nước mắt.
Ellen ngã bệnh.
Ngày Jim trở về, những ngón tay run rẩy, co quắp và gương mặt già nua đẫm lệ của mẹ chào đón chàng.
“Tội nghiệp Ellen,” mẹ thều thào. Đau đớn, chua xót, tiếc thương.
Jim bừng tỉnh.
Quá muộn.
Máu đen đã ứa ra nơi khóe môi Ellen.
Những bông hoa băng giá trên mộ. Lá úa tan tác trong gió lạnh, bay đầy trời, lả tả trút xuống mảnh đất Ellen nằm, đắp thêm hay lấp sâu thân xác nàng trinh nữ?! Còn đâu nữa những nụ hôn ấm áp nồng nàn. Còn đâu nữa trái tim rộn rã chất ngất tình yêu. Ellen mười chín, nàng trinh nữ mười chín, mãi mãi mười chín, không bao giờ hai mươi. Mẹ phía sau quan tài, mẹ trong ngôi mộ của mình, về nơi chín suối. Và trời đổ mưa, mưa, mưa hơn năm mươi năm dài, không tạnh từ ngày ấy.
Người yêu vĩnh viễn rời xa!
*
Tiếng chuông đồng hồ. Đinh-boong. Một. Đinh-boong. Hai...
Jim vật vã mơ. Ông gọi tên nàng trong đêm vắng.
“Ellen?”
Bóng đổ thẳm sâu câm lặng như lời giã biệt khắc khoải yêu thương từ miệng người hấp hối. Nghĩa trang đá cẩm thạch hệt những đôi môi, lạnh băng. Sỏi đá rêu phong. Những kỉ niệm trở lại rời rạc nhưng sống động trong ông; ký ức choán lấy, lấp đầy và ám ảnh hiện tại. Rùng mình, run rẩy, Jim lảo đảo tiến về phía cửa sổ ngập nắng chiều. Xoa xoa bàn tay gân guốc. Cầu nguyện. Sau đó, ông làm món cà chua và thịt nguội. Ông mơ mơ màng màng cảnh xế chiều - bóng đêm, một nửa cuộc đời. Trên đài phát thanh một giọng nữ hát bản Four Last Songs của Richard Strauss. Không cần phải hiểu lời.
Nỗi buồn sao ngọt ngào đến thế. Ai nói điều đó nhỉ?
Hoàng hôn. Ông ngồi ngóng tiếng chim muông lúc mặt trời lặn. Không có gì để xem, ngoại trừ chim két và chim sẻ; không có gì để nghe ngoại trừ tiếng cánh bướm.
Rất lâu sau đó, đồng hồ trong phòng khách đổ mười hai tiếng. Đêm đến, nóng bức.
Trườn lên chiếc giường rộng, Jim tắt đèn rồi nhìn những cái bóng chen chúc lộn xộn trên mảng tường dán giấy hoa. Những vì sao hắt ánh lên gương mặt u ám già nua của ông. Trăng tháng Tám chiếu qua cửa sổ. Dịu nhẹ êm đềm như sự tĩnh lặng, âm thầm như hoa táo rơi, ngọt ngào như lúm đồng tiền trên má Ellen khi cười. Ellen đứng đó, bên cạnh giường ông cùng nụ cười mừng vui pha lẫn buồn tủi. Ellen thủy chung đang chờ đợi.
“Bây giờ anh có cần em không?”
Có! Lạy Chúa nhân từ - có!
Ông nói: “Giờ anh có thể đi rồi, Ellen, nếu em muốn. Rốt cuộc anh chết là đúng.”
“Em rất vui. Em đã chờ đợi suốt một thời gian dài đằng đẵng!”
Jim nâng mình, bỏ lại bảy mươi sáu năm trời trên chăn gối, bay vút qua ánh trăng với Ellen trong vòng tay, như sao chổi vào chốn vĩnh hằng trong khi chiếc đồng hồ ở phòng khách đã chết.
Mãi mãi và mãi mãi.
Nguyễn Trung dịch
Nguồn: eastoftheweb.com
(SH314/04-15)
LTS: Trong 24 bài trong tập Cỏ dại của nhà văn Lỗ Tấn do GS. Trần Đình Sử dịch, Sông Hương số tháng 10 năm 2011 đã giới thiệu đến bạn đọc 3 bài “Sau khi chết”, “Sự giã từ của cái bóng” và “Sự run rẩy trên đường đồi bại”. Kỳ này Sông Hương xin giới thiệu tiếp với bạn đọc 4 bài chọn lọc từ Cỏ dại.
VILIAM KHÂYNÊXEN (Đan Mạch)
Khi Lêô tỉnh giấc, trong tai anh vẫn còn vang lên những lời của ông giáo sĩ giảng đạo.
LGT: Nhà văn, nhà nghiên cứu sử học và văn hóa Mỹ Jon Holmes sinh ra tại tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng công nghệ Texas nơi ông từng tham gia phong trào nhân quyền và phản chiến, Jon Holmes chuyển đến New York làm việc cho một tạp chí nhiếp ảnh và phụ trách một chương trình sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ hiện đại cho một đại công ty ở Bos- ton.
KNUT HAMSUN (*)
Do tôi viết. Viết vào ngày hôm nay cho trái tim vơi nhẹ đi. Tôi đã mất chỗ làm ở tiệm cà phê cùng những ngày sung sướng của tôi. Tất thảy mọi thứ, tôi đã mất hết. Và tiệm cà phê ấy là tiệm cà phê Mắcximilăng.
HENRY JAMES
(Tiếp theo Sông Hương số 290 tháng 4/2013)
Một buổi sáng (tôi cho là ở gần La Spezia) Harold đang vẽ bên gốc cây, không xa quán trọ, tôi ngồi cạnh, lớn tiếng đọc Shelley(18) - người có thể chứng tỏ được trìu mến hơn bất cứ ai.
ELENA PUCILLO TRUONG
Nỗi khắc khoải đã kéo dài từ bao lâu?
Có lẽ một năm. Quá nhiều. Lấy cớ đi vào toilette, hai tay tôi nắm chặt chiếc bồn rửa mặt trong nhà hàng như muốn bẻ làm đôi. Bao nhiêu bức bối đang dồn vào trong... bao nhiêu đau đớn... đau đến nỗi tôi không dám ngẩng mặt nhìn bóng mình trong gương.
Henry James (1843 - 1916), nhà văn Mỹ viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học và nghệ thuật Pháp. Ông định cư ở Londres, Anh từ 1876. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009), nội dung thể hiện ở nhiều chủ đề như: ý thức, tâm lý, mơ mộng, tình cảm, vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.
FRANÇOIS CHENG
(Trích từ tác phẩm Khi những linh hồn lang thang trở về)
Dưới gầm trời này, dưới cái gầm trời rất thấp này, tất cả đều có thăng có trầm, tất cả đều bị biến đổi. Tác phẩm về Những đột biến đã chỉ rõ điều đó, tổ tiên chúng ta đã nói: “Cứ năm năm thì có chuyển biến nhỏ, cứ năm trăm năm thì có đại đột biến”.
L.T.S: Sherwood Anderson (1876 - 1941) là nhà văn lớn của Mỹ. Ông có nhiều tư tưởng tiến bộ, và thường tỏ thiện cảm với những lực lượng vô sản cách mạng Mỹ, đặc biệt là trong những năm 1931 - 1935. Truyện ngắn "Những ngọn đèn chưa thắp" (Unlighted Lamps) của ông dưới đây được liệt vào một trong những chuyện ngắn xuất sắc trong nền văn học Mỹ từ trước đến nay. Câu chuyện về bi kịch nội tâm của những con người không phá vỡ nổi bức tường ngăn cách giữa những tình thân và cho đến khi nhắm mắt vẫn chưa kịp thắp lên ngọn lửa thông cảm.
Elena Pucillo Truong là người Ý, Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài (Đại học Milano Italia). Cô dạy tiếng Pháp và Văn minh Pháp tại Milano từ năm 1982 và gần đây có dạy tiếng Ý tại Nhạc Viện, tại phòng lãnh sự danh dự Ý và tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP HCM.
LGT: Etgar Keret sinh ngày 20/8/1967 tại Ramat Gan, Israel. Nhà văn nổi tiếng với truyện ngắn và kịch bản phim, có ảnh hưởng lớn tới lớp nhà văn trẻ hiện nay ở Israel.
L.T.S: Narayan là nhà văn miền Nam Ấn Độ, sáng tác bằng tiếng Anh. Sinh 10/10 năm 1906 tại làng Madras (mất 13/5/2001), từng sống ở thành phố Mysore cổ kính của quê hương ông.
Ferit Edgu sinh năm 1936, từng sống sáu năm ở Paris học chuyên ngành gốm. Trong nhiều năm ông là người viết kịch bản quảng cáo và rồi điều hành một nhà xuất bản. Sự vô lý của cuộc đời, những ám ảnh dục tính, sự sa đọa và sự bất hòa của người trí thức là những chủ đề của ông.
HEINRICH BÖLL (CHLB Đức)
(Heinrich Böll sinh 1917, mất 7-85 - giải thưởng Nôbel văn học 1972)
Ngoài các tác phẩm lớn về Việt Nam như Vạn Xuân, Lãn Ông, mấy năm gần đây, nữ văn sĩ Pháp Yveline Feray đã cho ra đời những tập truyện thần thoại và dân gian của các nước châu Á như Việt Nam, Trung Hoa, Campuchia, Tây Tạng. Vào cuối năm 2010, bà đã cho xuất bản tập “Chuyện kể của bà ngoại Ấn Độ”.
AKUTAHAVA RIUNÔXKÊ (Nhật Bản)
Hôm ấy một mình Đức Phật đi dạo ven bờ đầm trên Niết bàn.
Cả đầm toàn là sen trắng trong như ngọc, và nhị sen vàng tỏa ra xung quanh một mùi thơm ngọt, ngạt ngào.
L.T.S: LANGSTON HUGHES (1902 - 1967), nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch và dịch giả người Mỹ da đen, sinh ở Joplin, bang Missouri. Ông đã xuất bản 35 tác phẩm. Thơ của ông đã được dịch sang tiếng Việt. Những tác phẩm của ông phần lớn tập trung chủ đề đấu tranh cho quyền bình đẳng giữa người da đen và da trắng tại nước Mỹ. Truyện sau đây dịch trong tập truyện "The ways of white Folks".
Hình ảnh rồng Việt Nam từ xa xưa đã sớm đi vào nghệ thuật với nhiều loại hình khác nhau. Trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc, nhiều công trình điêu khắc lấy con rồng làm đề tài đã trở thành những tác phẩm có giá trị văn hóa, trong đó không ít công trình điêu khắc đá được xem như là những tác phẩm mang dấu ấn phong cách nghệ thuật của một thời kỳ.
Nhà văn Phillip Van Doren Stern sinh ra tại Wyalusing, bang Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. The Greatest Gift là truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông. Phillip Van Doren Stern đã từng gửi câu truyện này đi nhiều báo và tạp chí nhưng không nơi nào nhận đăng. Cuối cùng ông cho in truyện lên 200 tấm thiệp năm mới và phát cho bạn bè.
LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.