Về Côn Sơn gặp “cố nhân” của Ức Trai

16:34 07/02/2013

NGUYỄN NHÃ TIÊN
                     Tùy bút

Đi trong tiết trời ngập tràn gió lạnh mùa xuân Côn Sơn, con đường hun hút xuyên giữa cánh rừng thông thoảng nhẹ từng làn mây khói mỏng mảnh bay lượn lờ, như dẫn dắt con người vào một thế giới xa xăm thanh vắng.

Mùa xuân ở Côn Sơn - Ảnh: internet

Trong âm thanh vi vút bất tận của thông ngàn, hòa điệu với tiếng rì rầm lao xao của khe suối, chừng như cái cõi “cố sơn” gieo đầy giấc mộng trong thơ Ức Trai - Nguyễn Trãi thuở xa xưa: Cố sơn tạc dạ triền thanh mộng, cho đến tận bây giờ hãy còn vang hưởng đâu đó giữa ngút ngàn âm thanh và mây khói ấy. Dấu xưa Ức Trai từng lưu lại núi non này, từ thời thơ dại cho đến thuở Người cáo quan lui về ở ẩn tại Côn Sơn, hòa mình vào thiên nhiên bao la, cao khiết một đời sống thanh bần, ngày ngày vui cùng “Láng giềng một áng mây bạc/ Khách khứa hai ngàn núi xanh” (*).

Từ đền thờ Nguyễn Trãi bước ra, loanh quanh ngoài khuôn viên Thanh Hư Động, nhìn cái vạt đất núi mưa gió xói mòn lơ thơ cỏ dại, tôi liên tưởng đến dấu tích cái nền nhà cũ nơi Ức Trai ngày xưa bao lần “Hé cửa đêm chờ hương quế lọt”. Vọng thức hay là bước đi giữa một vùng đất sâu dày trầm tích văn hóa, ta thường bắt gặp một thứ phóng nhiệm quang chiếu vào tâm thức mỗi khi chạm vào từng sự vật cụ thể. Bước dọc theo triền con suối về phía thượng nguồn, chạm tay vào một phiến đá phẳng nằm bên suối, thì ra cái thạch bàn, nơi Ức Trai thường ra ngồi ngắm cảnh và làm thơ là đây. Chao ôi, “Côn Sơn suối chảy rì rầm/ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai, những hơn sáu trăm năm rồi, vậy mà tiếng suối ấy, tiếng đàn cầm xao xuyến thanh âm ấy, vang động trong thơ Ức Trai chảy mãi cho đến tận bây giờ. Cái thể phách, cái tinh anh của người xưa, đã hòa tan vào bao la đất trời xanh thẳm Côn Sơn, mây bạc ánh lên như những hồi quang soi rọi lấp lánh, hư vô cả đấy mà mồn một dấu xưa cũng đấy!

Hái cúc ương lan hương bén áo/ Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn/ Đàn cầm suối trong tai dội/ Còn một non xanh là cố nhân. Hương hoa cỏ của mùa xuân Côn Sơn bây giờ lối nào mà chẳng bén áo, có thể còn bát ngát tỏa hương gấp vạn lần ngày xưa ấy chứ. Chỉ có điều, mùi hương cúc, hương lan của Côn Sơn - “cố nhân” của Ức Trai mới là thứ hương vạn kỷ, thứ hương như phẩm hạnh tâm hồn thanh cao của nhà thơ. Bao thế kỷ qua rồi mà sao những tuyết - nguyệt - phong - hoa đẫm đầy trong thơ Ức Trai cứ như quyện vào đất trời Côn Sơn huyền nhiệm một sức sống. Thì còn gì nữa, dù trải qua bao thăng trầm và bi kịch của một số phận, nhưng may mắn thế nào đó, kho tàng văn học còn lưu giữ được đến bây giờ tập thơ chữ Hán “Ức Trai thi tập”, và nhất là tập thơ chữ Nôm “Quốc âm thi tập” - đây có thể xem là tác phẩm văn học đầu tiên bằng tiếng mẹ đẻ xưa nhất và xuất sắc nhất còn lưu lại một cách trọn vẹn.
 

Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn - Ảnh: internet


Có người cho rằng, hành hương về Côn Sơn, cũng tức là chạm vào ngôi đền thi ca của Ức Trai. Nói thế cũng chẳng có gì là quá. Lẽ thường mỗi khi cổ ngoạn những vùng đất huyền thoại sáng danh những nhân vật lịch sử và văn hóa, tâm thế con người ta hay bất chợt khơi vơi trong trạng huống phóng thể về một dĩ vãng xa xăm nào đó. Ví như bây giờ, mặc dù bầu không khí mùa xuân Côn Sơn người đông vui dặt dìu nhau du xuân, ấy vậy mà khi bước đi trên những bậc đá giữa rừng thông bao la, trong ngút ngàn thanh âm gió lá kia, tôi nghe ra niềm cô đơn của Ức Trai đã khảm khắc vào chon von đỉnh núi: “Còn một non xanh là cố nhân!” Khoảnh khắc ấy, hình ảnh Ức Trai nhẹ nhàng giũ bỏ áo mão, rồi như làn khói bay giữa núi rừng, khi thì Người: “Đạp áng mây ôm bó củi”, lúc thì “Ngồi bên suối gác cần câu”, có nơi cốt cách nghệ sĩ phóng khoáng niềm tự do được tắm mình giữa thiên nhiên, “Quét trúc bước qua lòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng. Bước chân Người ung dung thoát tục, nhưng lại có khi như là ưu du. “Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm” (Ta và mây trắng ai có tâm đây?). Câu thơ như một câu hỏi cho ngàn sau còn khôn nguôi niềm xao xuyến.

Thực ra, toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Ức Trai không chỉ là “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, mà còn là: Bình Ngô đại cáo, Phú núi Chí Linh, Quân trung từ mệnh tập, Văn bia Vĩnh Lăng, Chuyện cũ về Băng Hồ tiên sinh, Chiếu biểu viết dưới triều Lê, Dư địa chí… Tầm vóc một danh nhân văn hóa, một anh hùng dân tộc như Ức Trai - Nguyễn Trãi còn nhiều hơn thế nữa. Nhưng ở đây, cái bóng núi Côn Sơn lại gieo vào trong tâm tưởng tôi ngọn núi thơ sừng sững Ức Trai, cái bóng núi mà như thơ Người viết: “Nước chảy âu không xiết bóng non. Vâng, nước chảy khó mà trôi bóng núi, cho dù đó là dòng chảy nghiệt ngã của thời gian, ẩn chứa trong lòng nó một thứ biển dâu định mệnh đã trút xuống cuộc đời Ức Trai nỗi oan khiên của một bi kịch lịch sử.
 

Tượng đồng Nguyễn Trãi - Ảnh: internet

Có thể nói, tháng năm lui về Côn Sơn ở ẩn, Nguyễn Trãi thi sĩ một cách triệt để nhất, “Danh thơm một áng mây nổi/ Bạn cũ ba thu lá tàn/ Lòng tiện soi dầu nhật nguyệt/ Thề xưa hổ có giang san. Tâm hồn thi sĩ Ức Trai trong sáng quá, người nhún nhường mở lòng cho nhật nguyệt soi xét, lời thề xưa chưa trọn vẹn giúp nước non, đành hổ mặt mà nhìn giang sơn. Về Côn Sơn, tình yêu của Ức Trai, người bạn lớn của Ức Trai là thiên nhiên kì vĩ. “Gối giải mây, dầu trúc múa/ Cầm đưa gió, mặc thông đàn/ Ngày xem hoa động chăng cài cửa/ Tối rước chim về mã lạc ngàn. Về Côn Sơn, láng giềng của Ức Trai là mây, là núi, là chim, là hoa cỏ, “Núi láng giềng, chim bầu bạn/ Mây khách khứa, nguyệt anh tam. Cái núi cô liêu thăm thẳm của Ức Trai đã hào phóng sẻ chia cùng thi sĩ cả kho tàng thiên nhiên giàu có cái đẹp: “Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc/ Thuyền chở yên hà nặng vạy then. Thiên nhiên trong thơ Ức Trai không là bức tranh vẽ chép lại từ thế giới, mà là một thiên nhiên đã hòa nhập vào tâm hồn nhà thơ thành một nhất thể: “Trời nghi ngút, nước mênh mông/ Hai ấy cùng xem, một thức cùng/ Lẻ có chim bay cùng đá nhảy/ Mới hay kia nước, nọ hư không…”. Ở vào cái thuở cách xa bây giờ hơn cả sáu thế kỷ, vậy mà thi tài và trí tuệ uyên áo của Ức Trai đã viết nên những vần thơ trác việt như thế, ta có thể nói gì hơn Người là thi sĩ vĩ đại của thiên nhiên, không chỉ ngàn xưa mà cho mãi đến tận bây giờ. Thơ của Người đẹp như bức tranh cổ phương Đông in trên nền trời xanh biếc Côn Sơn, cái bóng núi huyền thoại soi bóng xuống Lục Đầu Giang như dẫn đường cho những bước chân hành hương tìm về!

Cho dù mùa xuân Côn Sơn chưa đến ngày khai hội, nhưng dường như khách muôn phương ngày mỗi về đông hơn. Côn Sơn ngày nay hoa ngàn sắc, gió ngàn hương, cùng với các công trình bề thế mang dáng dấp kiến trúc cổ: đền đài, cầu đá, cổng tam quan, hồ bán nguyệt... Nhưng không hiểu sao, trong dập dồn âm thanh của sự chuyển động ấy, tôi lại mơ hồ một quãng lặng của rêu xanh, nơi ngày xưa Ức Trai từng “Mộng giác cố viên tam kinh cúc” (Tỉnh mộng nhớ ba rặng cúc vườn cũ). Vườn cũ của người xưa bây giờ là đâu giữa thông reo gió hát bốn bề. “Còn một non xanh là cố nhân, thì “cố nhân” của Ức Trai vẫn Côn Sơn xanh thẳm mênh mông, vẫn tiếng suối ngày đêm như tiếng đàn cầm đánh thức từng quá vãng. Không biết có phải từ vọng tưởng mà ra, hay là một ngẫu nhiên, mà từ xa xa triền núi kia, áng mây trắng mỏng mảnh lượn lờ bay qua những rặng thông, rồi lướt qua phiến đá thạch bàn bên dòng suối ảo mờ như bóng người xưa bay lên!

Xuân 2013
N.N.T
(SH288/02-13)

----------------------
(*) Phần thơ Nguyễn Trãi (chữ nghiêng) trong bài được trích từ Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội 1976.
 





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THÁI VŨ

    Theo Đại Việt sử lược, nước Việt Nam ta xưa tên nước là Văn Lang, chính thức thành lập với các vua Hùng (696-682 trước TL), kinh đô đóng ở vùng tam giác sông Hồng, để thu phục các "bộ" vào các "bộ lạc" trên cả nước với một thể chế thống nhất.


  • HỮU THU - QUANG HÀ
               
                             Tùy bút

  • NGUYỄN QUANG HÀ

    Tôi đứng trên cầu Nam Đông nhìn ra bốn phía xung quanh, vẫn cảnh cũ người xưa.

  • HOÀNG PHƯỚC
          Bút ký dự thi

    Nội tổ của tôi ở đất Hiền Lương, một ngôi làng chuyên nông nhưng lại nổi tiếng với nghề rèn truyền thống của xứ Huế.

  • LÊ HÀ
        Bút ký dự thi

    Ka Lô, Sê Sáp là những bản miền núi thuộc huyện Kà Lùm, tỉnh Sê Kông của nước bạn Lào, tiếp giáp với hai xã biên giới huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.

  • NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG - TRẦN HỮU SƠN  

    Truyền thông rất quan trọng trong việc quản lý vận hành phát triển xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ngày nay, các thôn bản miền núi đang đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới thì truyền thông càng có ý nghĩa quyết định trong việc làm chuyển biến nhận thức, hành vi của người dân.

  • NGUYỄN THẾ  

    Ô Lâu là con sông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn nằm ở phía tây hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.

  • PHƯỚC AN  

    Vịnh Lăng Cô thuộc thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vịnh biển có bờ biển cát trắng phẳng lì dài hơn 10km, diện tích 42km2, được bao bọc xung quanh phía tây là dãy Trường Sơn hùng vĩ và phía đông là đại dương bao la xanh thẳm.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN  

    Quảng Trị thường được nhắc nhớ nhiều bởi đây là mảnh đất khô cằn, nắng gió khắc nghiệt. Trong quá khứ, Quảng Trị là địa bàn quần tụ đông đảo các lớp cư dân bản địa, là nơi đứng chân lập nghiệp của rất nhiều thế hệ lưu dân Việt trên bước đường khẩn hoang lập làng.

  • VÕ VINH QUANG     

    LGT: 3 văn bia liên quan đến họ Nguyễn Cửu - Vân Dương ở Vĩnh Nam - Vĩnh Linh - Quảng Trị. Tư liệu này do viên Hộ bộ Hữu thị lang sung biện Nội Các sự vụ Nguyễn Cửu Trường - một danh hiền xuất chúng, làm quan trải 3 triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức (thuộc chi phái Hoán quận công Nguyễn Cửu Pháp) viết về ông nội (Tiệp Tài hầu Nguyễn Cửu Khương), bà nội (Thái Thị Bảo/Bửu), cha (Ngũ trưởng Nguyễn Cửu Hoan).

  • LÊ ANH TUẤN    

    1. Tết truyền thống và lễ hội ăn mừng lúa mới trên dãy Trường Sơn

  • NGUYÊN HƯƠNG

    Khau Chang là một xã vùng cao thuộc huyện Bảo Lạc - tỉnh Cao Bằng, có đường giáp biên với Trung Quốc. Tình hình nhân chủng đa dạng cùng sự đặc sắc về văn hóa đã khiến Khau Chang trở thành nơi lưu giữ nhiều dấu ấn bản địa của Cao Bằng.

  • Cửa Lò (Nghệ An) được khai phá từ thế kỷ 15. Từ những làng chài nghèo ven biển, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vùng đất này đã trở thành đô thị du lịch biển đầu tiên của cả nước với những bãi tắm lý tưởng.

  • Những tòa nhà tráng lệ, trung tâm mua sắm sầm uất và các công trình đầy hứa hẹn tương lai… đã vẽ nên bức tranh về một thành phố vội vã chuyển mình. Nhưng còn có một Hà Nội dung dị, đời thường hơn. Chính những khía cạnh khác nhau ấy đã tạo nên nét riêng cho Hà Nội.

  • Ba Thắc cổ miếu ở Sóc Trăng là một cơ sở thờ tự của người Khmer Nam bộ. Nơi đây có nhiều huyền thoại linh thiêng được dân gian truyền miệng. Đặc biệt là những bộ xương người lộ thiên và chuyện kho báu dưới lòng đất.

  • VÕ TRIỀU SƠN

    Hải môn ca là bài thơ lục bát bằng chữ Nôm, khuyết danh, phiên trích trong sách “Thông quốc duyên cách hải chữ”, bản chép tay của Viện Khảo cổ Sài Gòn (số ký hiệu VĐ4, tờ 37a-39a).

  • TA DƯR TƯ

    Các dân tộc thiểu số anh em sống bên những dãy Trường Sơn hùng vĩ có rất nhiều nét văn hóa độc đáo và riêng biệt của từng dân tộc. Trong đó có nghệ thuật làm đẹp.

  • Ngày 25/1, tại Đền thờ Cao Lỗ, thôn Đại Trung, xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức lễ khởi công gói thầu số 1 tu bổ, tôn tạo nhà Tiền tế, đền chính, nhà Tả vu, Hữu vu, miếu sơn thần, nghi môn, lầu hóa vàng và các hạng mục phụ trợ đền Cao Lỗ.