NGUYỄN NHÃ TIÊN
Tùy bút
Đi trong tiết trời ngập tràn gió lạnh mùa xuân Côn Sơn, con đường hun hút xuyên giữa cánh rừng thông thoảng nhẹ từng làn mây khói mỏng mảnh bay lượn lờ, như dẫn dắt con người vào một thế giới xa xăm thanh vắng.
Mùa xuân ở Côn Sơn - Ảnh: internet
Trong âm thanh vi vút bất tận của thông ngàn, hòa điệu với tiếng rì rầm lao xao của khe suối, chừng như cái cõi “cố sơn” gieo đầy giấc mộng trong thơ Ức Trai - Nguyễn Trãi thuở xa xưa: Cố sơn tạc dạ triền thanh mộng, cho đến tận bây giờ hãy còn vang hưởng đâu đó giữa ngút ngàn âm thanh và mây khói ấy. Dấu xưa Ức Trai từng lưu lại núi non này, từ thời thơ dại cho đến thuở Người cáo quan lui về ở ẩn tại Côn Sơn, hòa mình vào thiên nhiên bao la, cao khiết một đời sống thanh bần, ngày ngày vui cùng “Láng giềng một áng mây bạc/ Khách khứa hai ngàn núi xanh” (*).
Từ đền thờ Nguyễn Trãi bước ra, loanh quanh ngoài khuôn viên Thanh Hư Động, nhìn cái vạt đất núi mưa gió xói mòn lơ thơ cỏ dại, tôi liên tưởng đến dấu tích cái nền nhà cũ nơi Ức Trai ngày xưa bao lần “Hé cửa đêm chờ hương quế lọt”. Vọng thức hay là bước đi giữa một vùng đất sâu dày trầm tích văn hóa, ta thường bắt gặp một thứ phóng nhiệm quang chiếu vào tâm thức mỗi khi chạm vào từng sự vật cụ thể. Bước dọc theo triền con suối về phía thượng nguồn, chạm tay vào một phiến đá phẳng nằm bên suối, thì ra cái thạch bàn, nơi Ức Trai thường ra ngồi ngắm cảnh và làm thơ là đây. Chao ôi, “Côn Sơn suối chảy rì rầm/ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”, những hơn sáu trăm năm rồi, vậy mà tiếng suối ấy, tiếng đàn cầm xao xuyến thanh âm ấy, vang động trong thơ Ức Trai chảy mãi cho đến tận bây giờ. Cái thể phách, cái tinh anh của người xưa, đã hòa tan vào bao la đất trời xanh thẳm Côn Sơn, mây bạc ánh lên như những hồi quang soi rọi lấp lánh, hư vô cả đấy mà mồn một dấu xưa cũng đấy!
“Hái cúc ương lan hương bén áo/ Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn/ Đàn cầm suối trong tai dội/ Còn một non xanh là cố nhân”. Hương hoa cỏ của mùa xuân Côn Sơn bây giờ lối nào mà chẳng bén áo, có thể còn bát ngát tỏa hương gấp vạn lần ngày xưa ấy chứ. Chỉ có điều, mùi hương cúc, hương lan của Côn Sơn - “cố nhân” của Ức Trai mới là thứ hương vạn kỷ, thứ hương như phẩm hạnh tâm hồn thanh cao của nhà thơ. Bao thế kỷ qua rồi mà sao những tuyết - nguyệt - phong - hoa đẫm đầy trong thơ Ức Trai cứ như quyện vào đất trời Côn Sơn huyền nhiệm một sức sống. Thì còn gì nữa, dù trải qua bao thăng trầm và bi kịch của một số phận, nhưng may mắn thế nào đó, kho tàng văn học còn lưu giữ được đến bây giờ tập thơ chữ Hán “Ức Trai thi tập”, và nhất là tập thơ chữ Nôm “Quốc âm thi tập” - đây có thể xem là tác phẩm văn học đầu tiên bằng tiếng mẹ đẻ xưa nhất và xuất sắc nhất còn lưu lại một cách trọn vẹn.
![]() |
Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn - Ảnh: internet |
Có người cho rằng, hành hương về Côn Sơn, cũng tức là chạm vào ngôi đền thi ca của Ức Trai. Nói thế cũng chẳng có gì là quá. Lẽ thường mỗi khi cổ ngoạn những vùng đất huyền thoại sáng danh những nhân vật lịch sử và văn hóa, tâm thế con người ta hay bất chợt khơi vơi trong trạng huống phóng thể về một dĩ vãng xa xăm nào đó. Ví như bây giờ, mặc dù bầu không khí mùa xuân Côn Sơn người đông vui dặt dìu nhau du xuân, ấy vậy mà khi bước đi trên những bậc đá giữa rừng thông bao la, trong ngút ngàn thanh âm gió lá kia, tôi nghe ra niềm cô đơn của Ức Trai đã khảm khắc vào chon von đỉnh núi: “Còn một non xanh là cố nhân!” Khoảnh khắc ấy, hình ảnh Ức Trai nhẹ nhàng giũ bỏ áo mão, rồi như làn khói bay giữa núi rừng, khi thì Người: “Đạp áng mây ôm bó củi”, lúc thì “Ngồi bên suối gác cần câu”, có nơi cốt cách nghệ sĩ phóng khoáng niềm tự do được tắm mình giữa thiên nhiên, “Quét trúc bước qua lòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng”. Bước chân Người ung dung thoát tục, nhưng lại có khi như là ưu du. “Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm” (Ta và mây trắng ai có tâm đây?). Câu thơ như một câu hỏi cho ngàn sau còn khôn nguôi niềm xao xuyến.
Thực ra, toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Ức Trai không chỉ là “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, mà còn là: Bình Ngô đại cáo, Phú núi Chí Linh, Quân trung từ mệnh tập, Văn bia Vĩnh Lăng, Chuyện cũ về Băng Hồ tiên sinh, Chiếu biểu viết dưới triều Lê, Dư địa chí… Tầm vóc một danh nhân văn hóa, một anh hùng dân tộc như Ức Trai - Nguyễn Trãi còn nhiều hơn thế nữa. Nhưng ở đây, cái bóng núi Côn Sơn lại gieo vào trong tâm tưởng tôi ngọn núi thơ sừng sững Ức Trai, cái bóng núi mà như thơ Người viết: “Nước chảy âu không xiết bóng non”. Vâng, nước chảy khó mà trôi bóng núi, cho dù đó là dòng chảy nghiệt ngã của thời gian, ẩn chứa trong lòng nó một thứ biển dâu định mệnh đã trút xuống cuộc đời Ức Trai nỗi oan khiên của một bi kịch lịch sử.
![]() |
Tượng đồng Nguyễn Trãi - Ảnh: internet |
Có thể nói, tháng năm lui về Côn Sơn ở ẩn, Nguyễn Trãi thi sĩ một cách triệt để nhất, “Danh thơm một áng mây nổi/ Bạn cũ ba thu lá tàn/ Lòng tiện soi dầu nhật nguyệt/ Thề xưa hổ có giang san”. Tâm hồn thi sĩ Ức Trai trong sáng quá, người nhún nhường mở lòng cho nhật nguyệt soi xét, lời thề xưa chưa trọn vẹn giúp nước non, đành hổ mặt mà nhìn giang sơn. Về Côn Sơn, tình yêu của Ức Trai, người bạn lớn của Ức Trai là thiên nhiên kì vĩ. “Gối giải mây, dầu trúc múa/ Cầm đưa gió, mặc thông đàn/ Ngày xem hoa động chăng cài cửa/ Tối rước chim về mã lạc ngàn”. Về Côn Sơn, láng giềng của Ức Trai là mây, là núi, là chim, là hoa cỏ, “Núi láng giềng, chim bầu bạn/ Mây khách khứa, nguyệt anh tam”. Cái núi cô liêu thăm thẳm của Ức Trai đã hào phóng sẻ chia cùng thi sĩ cả kho tàng thiên nhiên giàu có cái đẹp: “Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc/ Thuyền chở yên hà nặng vạy then”. Thiên nhiên trong thơ Ức Trai không là bức tranh vẽ chép lại từ thế giới, mà là một thiên nhiên đã hòa nhập vào tâm hồn nhà thơ thành một nhất thể: “Trời nghi ngút, nước mênh mông/ Hai ấy cùng xem, một thức cùng/ Lẻ có chim bay cùng đá nhảy/ Mới hay kia nước, nọ hư không…”. Ở vào cái thuở cách xa bây giờ hơn cả sáu thế kỷ, vậy mà thi tài và trí tuệ uyên áo của Ức Trai đã viết nên những vần thơ trác việt như thế, ta có thể nói gì hơn Người là thi sĩ vĩ đại của thiên nhiên, không chỉ ngàn xưa mà cho mãi đến tận bây giờ. Thơ của Người đẹp như bức tranh cổ phương Đông in trên nền trời xanh biếc Côn Sơn, cái bóng núi huyền thoại soi bóng xuống Lục Đầu Giang như dẫn đường cho những bước chân hành hương tìm về!
Cho dù mùa xuân Côn Sơn chưa đến ngày khai hội, nhưng dường như khách muôn phương ngày mỗi về đông hơn. Côn Sơn ngày nay hoa ngàn sắc, gió ngàn hương, cùng với các công trình bề thế mang dáng dấp kiến trúc cổ: đền đài, cầu đá, cổng tam quan, hồ bán nguyệt... Nhưng không hiểu sao, trong dập dồn âm thanh của sự chuyển động ấy, tôi lại mơ hồ một quãng lặng của rêu xanh, nơi ngày xưa Ức Trai từng “Mộng giác cố viên tam kinh cúc” (Tỉnh mộng nhớ ba rặng cúc vườn cũ). Vườn cũ của người xưa bây giờ là đâu giữa thông reo gió hát bốn bề. “Còn một non xanh là cố nhân”, thì “cố nhân” của Ức Trai vẫn Côn Sơn xanh thẳm mênh mông, vẫn tiếng suối ngày đêm như tiếng đàn cầm đánh thức từng quá vãng. Không biết có phải từ vọng tưởng mà ra, hay là một ngẫu nhiên, mà từ xa xa triền núi kia, áng mây trắng mỏng mảnh lượn lờ bay qua những rặng thông, rồi lướt qua phiến đá thạch bàn bên dòng suối ảo mờ như bóng người xưa bay lên!
Xuân 2013
N.N.T
(SH288/02-13)
----------------------
(*) Phần thơ Nguyễn Trãi (chữ nghiêng) trong bài được trích từ Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội 1976.
Họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du lừng danh như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng gia phả họ Nguyễn này ở Tiên Điền thì cũng chỉ cho biết vị tổ khải tổ là cụ Nguyễn Nhiệm (Nhậm), kế tiếp theo trực hệ là Nguyễn Đức Hành (Phương Trạch hầu) , Nguyễn Ôn, Nguyễn Thế, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nghiễm (Xuân Quận công) thân phụ của Nguyễn Du.
Văn hóa đình làng từng có một vị trí hết sức quan trọng trong cộng đồng người dân sống ở chốn kinh kỳ Thăng Long - Kẻ Chợ xưa kia. Theo thống kê, ở khu phố cổ hiện nay vẫn còn hơn 60 ngôi đình trong tổng số 112 công trình tôn giáo tín ngưỡng từng có tại đây. Số phận những ngôi đình đó giờ ra sao, trong thời buổi kinh tế “mặt tiền thành tiền mặt”?
LÊ THỊ MÂY
1
Hơn mười ba năm về trước, kỳ vừa ngưng bom đạn, thường từ sớm chủ nhật, tôi đã về quanh quẩn với phố đổ rậm rì cỏ dại. Nhiều lần đếm đi đếm lại, cũng chỉ còn sót có mười bốn cây dừa, thân bị băm kín miểng bom. Tàn lá xơ xáp, đỏ cháy.
PHẠM HỮU THU
Đầu tháng tư năm nay, tôi mới có dịp trở lại Hải Vân, bởi từ khi có hầm đường bộ, xe cộ ít qua lại con đường đèo quanh co, đầy hiểm nguy nhưng có cảnh quan tuyệt mỹ này.
Ngoài một dung lượng văn hóa tộc người đủ thỏa mãn độc giả thì công trình Mọi Kontum(1937) của Nguyễn Kỉnh Chi và Nguyễn Đổng Chi còn là một văn phẩm tạo được sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt. Tham luận góp phần lý giải thành công của tác phẩm trên ba phương diện: Lối khảo tả chân phương mà thấu đạt, trí tuệ sắc bén mà vẫn hồn hậu và văn phong ấn tượng.
Chỉ 15 năm, như chớp mắt, hàng loạt các công trình hiện đại đã hùng hổ đẩy những biểu tượng cũ của Sài Gòn đi sâu vào trong quá khứ, biến chúng thành những tiểu cảnh.
INRASARA
Khi mẹ la chị Hám: “Mi không biết hôm nay là ngày gì sao mà hốt thóc trong lẫm đi xay”, thì tôi biết ngay đây là ngày trăng hết harei ia bilan abih, ngày người Cham kiêng xuất hàng ra khỏi nhà.
Dù có thể không sinh ra trên mảnh đất này nhưng đã là người Việt Nam ai cũng cảm nhận được một Hà Nội của chúng ta từ sông Hồng đỏ nặng phù sa đến Hồ Gươm lung linh truyền thuyết, Văn miếu - Quốc Tử Giám thâm nghiêm... Và cũng xao xuyến nhận ra một cái gì đó rất Hà Nội, của Hà Nội, từ mùa thu se sẽ lâng lâng đến đêm nồng nàn hoa sữa, cơn mưa tìm về phố cổ với màn sương lan nhẹ mặt Hồ Gươm...
Chợ Gôi ở xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh có tự bao giờ? Câu hỏi thật khó và cũng chưa thể có câu trả lời đầy đủ. Mà cái tên nôm “Gôi” còn được dùng để chỉ địa danh của nhiều nơi khác ở Việt Nam.
Vượt chặng đường hơn 50 km về hướng bắc, từ trung tâm thành phố Pleiku - tỉnh Gia Lai chúng tôi tìm đến làng Kon Solal ở xã Hà Tây, huyện Chư Păh - một trong vài ngôi làng nguyên sơ cuối cùng còn lại của đồng bào BaNa.
Đó là ngôi làng dưới chân núi Chư Mom Ray nhiều huyền thoại. Điều kỳ lạ là cả đứa trẻ 10 tuổi cũng nói được nhiều thứ tiếng, không chỉ tiếng của dân tộc khác, mà họ còn nói được tiếng Lào, Miên và những đứa trẻ được đi học thì tiếng Anh cũng không phải là ngoại lệ.
“Thất bại trước quân Triệu Đà tại Cổ Loa của An Dương Vương dẫn đến 1.000 năm Bắc thuộc là nỗi đau lớn của dân tộc Việt. Nhưng Cổ Loa không chỉ ghi dấu thất bại thiên thu. Mà đó còn là nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô ngay khi đại phá quân Nam Hán năm 938, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của nước việt với triều đình phương Bắc. Và điều này đang bị lãng quên...”.
Chùa Tiêu Sơn (thường gọi là chùa Tiêu) - một danh thắng nổi tiếng và cũng là - trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.
Đền Quả Sơn ở Bạch Ngọc nay là xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương thờ Lý Nhật Quang. Ngài là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được phong tước Uy Minh vương. Mùa xuân năm 1902, Nguyễn Sinh Cung trên nẻo đường theo cha đi dạy học, thăm thú quê hương có đến chiêm bái đền Quả Sơn - một trong bốn ngôi đền linh thiêng nhất của tỉnh Nghệ.
Hát ví Sông La (tên gọi một làn điệu ví của Xứ Nghệ; cũng có thể hiểu là điệu ví ở sông La) tham luận này đề cập giới hạn những điệu ví ra đời, tồn tạị, phát triển ở vùng sông La, miền Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Chùa Nền, phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1116–1138), bài trí thờ Phật và song thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh là ngài Từ Vinh và bà Tằng Thị Loan.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
Những năm cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, ngành Dân tộc học Việt Nam nói chung và miền Trung Tây Nguyên nói riêng được các nhà khoa học, chính trị, bác sĩ của Pháp tiến hành nghiên cứu và công bố nhiều tác phẩm có giá trị.
(SHO) Cứ hễ nhắc tới miền Trung, mỗi người Việt Nam có thể mường tượng ngay ra trong đầu những vùng đất của thiên tai triền miên. Miền đất, nơi mà từ tấm bé cho tới khi lìa đời dường như đều gắn với con chữ nghèo và sớm sương mưa nắng lận đận mưu sinh.
(SHO) Vậy là tôi đã ở Miền Tây mênh mang sông nước! Tôi đã đặt chân lên bến Ninh Kiều Cần Thơ và ấp Mũi Cà Mau! Tôi đã đi tàu ca nô trên những con kênh, con lạch mà hai bên bờ mọc đầy những cây đước, cây tràm…
Huế xưa – nay, Huế của khúc ruột nước non, chứa đựng trong mình cả một bề dày lịch sử thông qua nét trầm mặc cổ kính của những lăng tẩm, cung điện, chùa chiền… Nhưng có lẽ ít ai biết, Huế vẫn còn ẩn chứa trong mình một A Lưới - vùng đất nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và trầm lắng nhiều giá trị văn hoá cổ xưa của cộng đồng các dân tộc thiểu số.