PHẠM XUÂN DŨNG
(Đọc tập ký sự - phỏng vấn “Đi và viết” của Nguyễn Linh Giang, Nxb. Thanh Niên, 2022).
Nhà báo, luật gia Nguyễn Linh Giang quê Quảng Trị, cựu học sinh chuyên văn xứ Huế, cử nhân Văn khoa, Đại học Tổng hợp Hà Nội, từng là phóng viên cứng cựa của nhiều tờ báo trung ương và hiện là biên tập viên Nxb. Thanh Niên, chi nhánh phía Nam.
Tập sách của anh hầu hết tập hợp các bài viết, phỏng vấn trong cuộc đời ký giả của Nguyễn Linh Giang, bày tỏ nỗi đam mê xê dịch, được đi và viết, trải nghiệm và khám phá; một tác phẩm hài hòa giữa chất thông tấn và văn chương, thể hiện khá rõ tâm lực và bút lực của nhà báo Nguyễn Linh Giang, đặc biệt nổi trội ở mảng ký sự nhân vật và phỏng vấn nhân vật.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi muốn dừng lại ở những câu chuyện và nhân vật văn nghệ thú vị mà tập sách mô tả.
Nhiều người đọc sẽ gặp nhà giáo, nghệ sĩ Võ Thị Quỳnh của đất Thần kinh, người đã thực hiện ý tưởng ép hoa thành tranh làm thăng hoa đời sống cây cỏ như người viết nhận xét: “Xem tranh của Võ Thị Quỳnh, thật ngạc nhiên, hoa- lá-cây đã hóa tranh thành những bức tranh huyền ảo, những nốt nhạc thiên nhiên ngân vang. Từ những bức tranh vời vợi ký ức như: Quê nhà, Hội làng... đến những bức tranh thấm đẫm chiều sâu suy tưởng: Ngôi nhà cổ tích, Dạ vũ, Cung đàn không dành cho Từ Hải...” (Người làm “thăng hoa” đời sống cỏ cây). Tranh của nghệ sĩ Võ Thị Quỳnh đã từng lọt vào “mắt xanh” của Trung tâm Công nghệ Thông tin du lịch Huế và đơn vị này đã mời tác giả đem tranh sang Pháp triển lãm, đáng tiếc là cô giáo thời kỳ ấy bận dạy nên không thể tham dự.
Hay như nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh, một người đại thọ sống đến 102 tuổi, đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu năm 1996 vì những cống hiến vô giá của ông. Chỉ riêng bộ ảnh của ông về nạn đói năm Ất Dậu (1945) đã là di sản nhiếp ảnh có một không hai. Một nghệ sĩ kỳ cựu trứ danh như thế thì đã có quá nhiều người viết về ông. Đến lượt mình, tác giả nhấn mạnh hai điều của nhà nhiếp ảnh tên tuổi: đó là một người rất chịu khó đi, rất mê đi, cái đi khám phá và sáng tạo của một nghệ sĩ đích thực. Chẳng hạn như với Sa Pa, không nhớ ông đã lên đó bao nhiêu lần, ông đã lên đó từ hồi thanh niên năm 1933 mà đến hơn 60 năm khi đã U.90, nhà nghệ sĩ vẫn lên tàu hỏa về lại chốn xưa; hay từ khi vào nghề cho đến cuối đời chỉ dùng một chiếc máy ảnh hiệu Zeiss Ikon của Đức sản xuất từ năm 1928. Với chiếc “máy ảnh cổ lỗ sĩ” như vậy nhưng cụ vẫn thành danh ở một đẳng cấp quốc tế, một nhân chứng lịch sử quan trọng, “nói có sách, mách có ảnh”. Vui chuyện, nghệ sĩ kể lại một kỷ niệm thật khó quên năm 1945 khi cách mạng mới thành công: “...Anh em đồng ý cho tôi chụp. Tôi đến bên xe, lễ phép với Bác: “Xin cụ bỏ mũ xuống cho con chụp ảnh”. Tôi còn nhớ rõ lúc đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang còn ngồi bên cạnh Bác. Bác vui vẻ bỏ mũ xuống, để đầu trần. Tôi chụp được một kiểu Bác Hồ ngồi trong xe ô tô, có tướng Giáp ngồi bên cạnh.” (Một thế kỷ cầm máy).
Một điểm nhấn đặc sắc của tập sách là tập hợp một số bài đã đăng tải trên các báo phỏng vấn các văn nghệ sĩ thành danh có tên chung là “Những cuộc chuyện trò xuyên thế kỷ”, với những tên tuổi: Phạm Thiên Thư, Nguyễn Duy, Trần Kim Trắc, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Trịnh Công Sơn. Từ những tâm tình của họ qua việc trả lời phỏng vấn đã hé lộ nhiều điều thú vị mà không phải ai cũng biết.
Một Phạm Thiên Thư, thi sĩ lừng lẫy với những vần thơ trác tuyệt bay bổng được nhạc sĩ chắp cánh trong các ca khúc của mình như “Ngày xưa Hoàng Thị”, “Đưa em tìm động hoa vàng”. “... Tuy nhiên đời thơ của Phạm Thiên Thư còn có hàng chục tác phẩm khác, là những viên ngọc lung linh, kỳ lạ; ông đã từng được trao 2 Kỷ lục Việt Nam về thơ và còn nhiều kỷ lục thơ khác chưa được ghi nhận. Một chiều cuối năm Canh Dần, trong tiết trời se lạnh hiếm hoi ở đất Sài Gòn, chúng tôi tìm đến quán cà phê Hoa Vàng để gặp nhà thơ Phạm Thiên Thư. Trước cổng cà phê Hoa Vàng (tên quán đặt theo tên một bài thơ của Phạm Thiên Thư), mặc cho dòng đời xuôi ngược, ồn ã, một ông già trên 70 tuổi như ngồi thiền, trầm tư nhả những vần thơ minh triết.” (Phạm Thiên Thư - Ngày xưa Hoàng Thị). Nguyên mẫu của bài thơ “Ngày xưa Hoàng Thị” tên Ngọ vẫn còn sống tuy đã cao niên, thế nhưng sức lan tỏa của thi ca nhiều khi không thể nào nói hết và chẳng thể nào đoán biết nổi. “...Tuy nhiên, có những chi tiết thú vị vô cùng! Sau này, có hơn 10 cô gái, có người tìm đến gặp nhà thơ và tự nhận mình là cô Ngọ. Chỉ mới cách đây vài tháng, có một cô mới 30 tuổi, đến gặp Phạm Thiên Thư và tự nhận mình là... cô Ngọ (!). Khi kể chuyện này, tôi thấy nhà thơ Phạm Thiên Thư nheo mắt cười ý vị.”
Hay chuyện làm lịch thơ là sáng tạo của nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Duy, một thú chơi tao nhã và còn tính tâm linh. Thế nhưng khi trò chuyện thì thật bất ngờ mới hay rằng, phát kiến này ra đời do nhà thơ lúc ấy phải nghĩ cách... trả nợ làm nhà. Dù xuất xứ trong cảnh ngộ éo le như thế nhưng nó vẫn thành công và được đời sống trân trọng và thu nhận như một sản phẩm văn hóa tinh thần. Chính nhà thơ Nguyễn Duy khi trả lời câu hỏi về “ngôn ngữ” riêng của lịch thơ là gì? “- Làm lịch thơ phải có sự hòa nhập giữa tâm linh và kỹ thuật. Lịch thơ không phải là hàng hóa thuần túy mà còn là tác phẩm nghệ thuật. Lịch thơ có tính chất triết luận ở trong đó”. (Nhà thơ Nguyễn Duy với những “cuộc chơi” văn hóa).
Nhà văn đương đại dẫn đầu về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, khi ấy mới nổi tiếng, vốn là một nhà giáo dạy môn lịch sử, đề cập về vai trò của nó đối với văn chương, đã khẳng định một nội dung vẫn đang là vấn đề thời sự hiện nay. “Khoa học lịch sử hết sức quan trọng với nhà văn nói riêng và mọi người nói chung. Bao giờ học cái gì đấy, tôi cũng cố gắng biết cái lịch sử của nó, nó giúp cho tôi suy nghĩ hệ thống và toàn diện. Khoa học lịch sử dạy người ta khái quát”. Cũng liên quan đến nhân vật lịch sử và nhân vật văn học, trong đó có các thần tượng, nhà văn nói rõ hơn quan niệm của mình cũng rất lý thú: “Thời nào, người nào cũng có thần tượng. Các thần tượng luôn thay đổi theo sự trưởng thành của tư duy thời đó, người đó. Nhân vật lịch sử là nhân vật lịch sử. Song, tất cả những người có tên tuổi đều phải dè chừng họ. Họ phải thế nào mới có tên tuổi chứ, mới được ghi nhận chứ? Biết bao nhiêu người sinh ra chết đi và vô danh... Tôi tôn trọng và khâm phục tất cả các nhân vật có tên tuổi trong lịch sử cũng như trong hiện tại. Song, không phải vì thế mà tôi không tôn trọng và khâm phục những kẻ vô danh. Đã là con người phải tôn trọng con người”. (Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - Nghề văn là một nghề gian khó).
Cuộc phỏng vấn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào năm 2000 trước khi ông rời cõi tạm ít lâu cũng có thêm những lý giải lý thú. Ví như nói về chất Huế trong ca khúc của ông dù không nói đến địa danh nào mà vẫn gợi ra quê hương Cố đô này, nhạc sĩ bảo rằng: “Tất cả những bài hát tôi viết đều mang mang một khí hậu Huế. Có Huế trong tôi và có tôi trong Huế. Vì vậy, mặc dù không cố tình nhưng không bao giờ tôi nhắc đến chữ Huế trong các ca khúc của tôi.
Càng về sau này những giai điệu của tôi càng có khuynh hướng mang màu sắc dân ca. Đó cũng là điều tự nhiên khi tâm hồn của một người đã gắn liền với những buồn vui của dân tộc mình”.
Còn khi được hỏi nhạc sĩ qua ca khúc có vẻ như đắc đạo thì Trịnh Công Sơn lại không đồng tình. Ông như giải bày gan ruột: “Đừng nói đến sự đắc đạo. Tôi không phải là một nhà tu. Nếu cần ví von thì tôi chỉ là một hành giả đi qua cuộc đời này và chiêm nghiệm về sự vô thường. Mỗi ngày tôi đều có những giây phút yên tĩnh để suy tưởng và có lẽ vì thế trong một số ca khúc của tôi bàng bạc một chút thiền.” (Trịnh Công Sơn và cuộc trò chuyện cuối cùng thiên niên kỷ).
Tác giả là người luôn khát khao tìm kiếm và khám phá những điều mới lạ, thú vị của cuộc đời nói chung và thế giới văn nghệ nói riêng rồi chiêm nghiệm trong từng con chữ. Duyên bút mực và lao động chữ nghĩa đã đem lại những tác phẩm báo chí giá trị mang đậm dấu ấn riêng của ký giả Nguyễn Linh Giang.
P.X.D
(TCSH46SDB/09-2022)
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH