Tuyển tập Thái Vũ - một cuốn sách độc đáo

09:37 14/08/2009
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

NV Thái Vũ trình bày với cụ Phạm Văn Đồng về văn học truyền thống và tiểu thuyết lịch sử

“TUYỂN TẬP THÁI VŨ” (*) chỉ dày tròn...1000 trang và không chỉ gồm các tiểu thuyết lịch sử. Đã đành, chỉ với 1000 trang, nên phần tiểu thuyết lịch sử ông chỉ có thể chọn trích in từ 7 tác phẩm chính đã xuất bản, nhưng qua “Tuyển tập”, chúng ta lại được biết một “Thái-Vũ-khác” - một Thái Vũ tài hoa và cũng là người có số...đào hoa!

Có lẽ phần lớn bạn đọc lần đầu được biết một “Thái Vũ-nhà thơ”. Trong “Tuyển tập”, sau tấm ảnh và bài viết trang trọng ghi lại “Buổi hạnh ngộ” quý hiếm giữa tác giả đã và Cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng ngày 24/9/1997, Thái Vũ đã ưu ái dành phần mở đầu bằng những bài thơ - trong đó có rất nhiều bài thơ tình. Không phải ngẫu nhiên tuyển tập của ông mang tên rất thơ: “NHỮNG CHIẾC LÁ THỜI GIAN”. Tuy ông đã “tự bạch” rằng: “Tôi không phải là “nhà thơ”, ai gọi như vậy, tôi rất... ngượng”, nhưng chính là ông đã trở thành một trong những hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957 do có thơ đăng trong “Tạp chí Văn nghệ” xuất bản ở chiến khu Việt Bắc từ năm 1951. Đó là bài thơ “Các anh” tưởng nhớ các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc:

...Tôi không quên các anh / Với nụ cười hồn nhiên / Với cái nhìn hò hẹn / Với da trẻ rám đen / Với bàn tay mạnh chắc / Với lòng không thắc mắc.../ Các anh / Đi mãi không về!...”

Bài thơ này sau đó đã in trong “Tuyển tập thơ Việt Nam 1950-1954”.

Điều thú vị là anh lính trẻ Bùi Quang Đoài “dám” viết thơ tình lãng mạn giữa những ngày kháng chiến gian khổ ở Liên khu 5 (1947) và nay, khi đã ở tuổi “xưa nay hiếm”, lão nhà văn Thái Vũ lại say vì thơ tình! Đặc biệt hơn, trong khi hầu hết thơ tình của các nhà thơ khác - nếu tôi không nhầm - thường viết về những cung bậc tình lứa đôi trong thế gian, những “anh và em”, “chàng và nàng" trong mộng tưởng hay hư cấu đều không có tên và “địa chỉ” thì thơ tình của Thái Vũ đều dành tặng những “người đẹp” với nguyên vẹn tên thật đã đến với cuộc đời ông. Bài thơ “Vọng nàng thơ” viết năm 1947 trên Đường 19 (An Khê) ông ghi rõ “Nhớ Duyên (Huế)”:

... Ta chỉ là trai thời chinh chiến / Ra đi không hẹn một ngày về / Bên suối đêm nay lòng xao xuyến / Nhớ Em...ly biệt không lời thề...”

Vì thế, đọc những bài thơ tình của ông, chúng ta hiểu thêm một phần đời quan trọng của nhà văn. Trong thời gian dạy văn Trường “Trung học Bình dân quân sự” thuộc Bộ Tư lệnh Liên khu 5 (1948-1950), ông đã “phải lòng” cô nữ sinh xinh đẹp trường Lê Khiết mang tên một loài hoa (tác giả dám ghi tên thật “người đẹp” trong các bài thơ, vậy mà tôi lại có chút e ngại!) để rồi có những câu thơ thật lãng mạn:

...Tiếng ai thì thầm /(Không!Vẫn là tiếng lá)/ Gió ơi còn nhắc làm chi / Để buồn thêm cảnh chia ly...em về. // Em về thật, em?/(Khoảng trời không còn nữa)/ Ơ...có hai con chim nhỏ / Đậu trên cành nối mỏ tỉ tê...”

Bây giờ thì cô gái ấy đã ở rất xa và sự đời thật kỳ lạ, một cô gái trẻ cũng tên loài hoa ấy đã đến sưởi ấm cuộc đời cô quạnh của lão nhà văn Thái Vũ, dâng cho ông nguồn thơ dạt dào:

Ôi! Linh diệu bông hồng như huyền thoại / Giữa đất trời hay từ những vì sao / Thực hư chăng cứ ngỡ giấc chiêm bao / Hoa rực sáng...khi mỗi chiều đón đợi..”

Giữa hai “bông hoa” đầu và cuối đời ấy, thời Bùi Quang Đoài ra Hà Nội học Đại học Sư phạm Văn khoa với các thầy giáo danh tiếng như Đặng Thai Mai, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu..., chàng đã có mối tình thật đẹp với cô sinh viên khoa Toán Lý N.T.L. Trớ trêu thay, nàng là dân đạo gốc, thân mẫu chàng trai họ Bùi quê ở Huế vốn sùng đạo Phật; đó cũng là lúc Bùi Quang Đoài gặp “tai nạn” văn chương, nên nàng đã... cắt tóc đi tu và nay thì đã trở thành Mẹ Bề Trên một nhà tu ở Hà Nội! Tròn nửa thế kỷ đã qua, lần đầu tiên Thái Vũ công bố những vần thơ thật da diết:

...Đường em đi âm thầm năm tháng / Con đường anh không hạnh phúc lứa đôi / Đã yêu nhau...anh nỡ chia phôi / Sông hai ngả không nhập về một nhánh / Em nguyện cầu bên chân tượng Thánh / Anh bơ vơ không nẻo đường về...”

Phần THƠ chưa đầy 50 trang,, nghĩa là chỉ non 1/20 của “Tuyển tập”, nhưng đã gây ấn tượng đáng kể. Phần TIỂU LUẬN hơn 200 trang với trên ba chục bài viết thể hiện vốn kiến thức sâu rộng của ông về nhiều đề tài. Ông “tham chiến” minh oan cho trạng nguyên Lê Văn Thịnh thời nhà Lý, bàn luận về “Thiền học đời Trần với vai trò của Trần Hưng Đạo”, hăng hái trao đổi về một câu thơ trong bài “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, giới thiệu một số danh nhân và các giá trị văn hóa trên dải đất Bình Trị Thiên, phác họa chân dung các nhà thơ Hữu Loan và Quang Dũng...Phần “Tiểu luận” còn có  những bài phê bình các tác phẩm của Thái Vũ và những trang “tự bạch” của tác giả về quan niệm viết tiểu thuyết lịch sử, giúp bạn đọc hiểu sâu hơn giá trị tác phẩm và cội nguồn đã tạo nên mấy ngàn trang tiểu thuyết lịch sử của ông. Trong “Tuyển tập” độc đáo này còn có 4 tác phẩm âm nhạc, trong đó, có bài hát “Tình Việt Lào Miên” với tên tác giả là Mộc Quang Đoài được Ban Tuyên huấn Quân khu 5 in năm 1950, có nhạc múa “Đêm hoa đăng” và cả... tình ca tặng “bông hoa” đang mang lại cho ông sức sống và tâm hồn tươi trẻ.

“Tuyển tập Thái Vũ” vì thế quả là độc đáo, không phải là loại sách dựng trong tủ kính cho sang trọng mà có lẽ sẽ được nhiều bạn đọc tìm đến vì nó chứa đựng những điều chưa phải ai cũng biết .

Trường An-Huế 5/2004
N.K.P
(184/06-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của PGS.TS. Võ Văn Nhơn, văn chương phương Nam giữ vị trí trung tâm và nổi bật.

  • “Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng”1. Hành trình sáng tác của Han Kang là sự kết nối những câu hỏi và là “suy ngẫm về những câu hỏi”.

  • Hồ Minh Tâm sinh năm 1966 tại Quảng Bình. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Đà Nẵng năm 1990, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998; làm việc trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, tư vấn thiết kế, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

  • Trong một bài viết mấy năm trước, tôi dẫn câu “số phận chứa một phần lịch sử” và tưởng rằng sự đúc kết rất đáng suy ngẫm này là của nhà văn - đạo diễn Đặng Nhật Minh. Hóa ra tôi đã nhầm.

  • Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

  • Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.

  • Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?

  • Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...

  • Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.

  • Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên). 

  • (Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).

  • Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.

  • Lê Minh Phong (sinh 1985) vốn cùng quê với Huy Cận, nhưng xa hơn về phía núi. Cả hai đều có một tâm hồn cổ sơ. Nét hoang dã của vùng đất ấy đã tạo ra ngọn Lửa thiêng trong thơ Huy Cận, tạo nên những huyền thoại, cổ tích trong văn xuôi Lê Minh Phong.

  • (Đọc tập tiểu luận “Ngắn dần đều” của Hoàng Đăng Khoa, Nxb. Đà Nẵng và Book Hunter, 2024)

  • YẾN THANH

    Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • VÕ QUỐC VIỆT (Đọc “Đất Việt trời Nam liệt truyện” của Trần Bảo Định)

  • Tập thơ Vực trắng, Nxb. Hội Nhà văn quý 2/2024 của nhà thơ, nhà báo Lữ Mai gồm 55 bài thơ, được sắp xếp thành 6 phần: “Từ núi”, “Đi lạc”, “Nói bằng gai sắc”, “Trở về chạng vạng”, “Gửi Huế”, “Cánh tàn bừng giấc”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Lê Quang Sinh sáng tác thơ và trở thành nhà thơ được độc giả cả nước yêu quý và đón nhận nồng nhiệt. Nhưng ít ai biết Lê Quang Sinh là nhà phê bình thơ có uy tín với mỹ cảm tiếp nhận bất ngờ qua từng trang viết đồng sáng tạo tài hoa của anh.

  • PHONG LÊ

    Hải Triều, đó là một tên tuổi quan trọng trong sinh hoạt văn chương - học thuật thời kỳ 1930 - 1945. Ông vừa giống vừa khác với thế hệ những đồng nghiệp cùng thời, nếu xét trên phạm vi các mối quan tâm về học thuật.