Văn nghệ sĩ qua bút mực Nguyễn Linh Giang

09:25 21/10/2022

PHẠM XUÂN DŨNG

(Đọc tập ký sự - phỏng vấn “Đi và viết” của Nguyễn Linh Giang, Nxb. Thanh Niên, 2022).

Nhà báo, luật gia Nguyễn Linh Giang quê Quảng Trị, cựu học sinh chuyên văn xứ Huế, cử nhân Văn khoa, Đại học Tổng hợp Hà Nội, từng là phóng viên cứng cựa của nhiều tờ báo trung ương và hiện là biên tập viên Nxb. Thanh Niên, chi nhánh phía Nam.

Tập sách của anh hầu hết tập hợp các bài viết, phỏng vấn trong cuộc đời ký giả của Nguyễn Linh Giang, bày tỏ nỗi đam mê xê dịch, được đi và viết, trải nghiệm và khám phá; một tác phẩm hài hòa giữa chất thông tấn và văn chương, thể hiện khá rõ tâm lực và bút lực của nhà báo Nguyễn Linh Giang, đặc biệt nổi trội ở mảng ký sự nhân vật và phỏng vấn nhân vật.

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi muốn dừng lại ở những câu chuyện và nhân vật văn nghệ thú vị mà tập sách mô tả.

Nhiều người đọc sẽ gặp nhà giáo, nghệ sĩ Võ Thị Quỳnh của đất Thần kinh, người đã thực hiện ý tưởng ép hoa thành tranh làm thăng hoa đời sống cây cỏ như người viết nhận xét: “Xem tranh của Võ Thị Quỳnh, thật ngạc nhiên, hoa- lá-cây đã hóa tranh thành những bức tranh huyền ảo, những nốt nhạc thiên nhiên ngân vang. Từ những bức tranh vời vợi ký ức như: Quê nhà, Hội làng... đến những bức tranh thấm đẫm chiều sâu suy tưởng: Ngôi nhà cổ tích, Dạ vũ, Cung đàn không dành cho Từ Hải...” (Người làm “thăng hoa” đời sống cỏ cây). Tranh của nghệ sĩ Võ Thị Quỳnh đã từng lọt vào “mắt xanh” của Trung tâm Công nghệ Thông tin du lịch Huế và đơn vị này đã mời tác giả đem tranh sang Pháp triển lãm, đáng tiếc là cô giáo thời kỳ ấy bận dạy nên không thể tham dự.

Hay như nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh, một người đại thọ sống đến 102 tuổi, đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu năm 1996 vì những cống hiến vô giá của ông. Chỉ riêng bộ ảnh của ông về nạn đói năm Ất Dậu (1945) đã là di sản nhiếp ảnh có một không hai. Một nghệ sĩ kỳ cựu trứ danh như thế thì đã có quá nhiều người viết về ông. Đến lượt mình, tác giả nhấn mạnh hai điều của nhà nhiếp ảnh tên tuổi: đó là một người rất chịu khó đi, rất mê đi, cái đi khám phá và sáng tạo của một nghệ sĩ   đích   thực. Chẳng hạn như với Sa Pa, không nhớ ông đã lên đó bao nhiêu lần, ông đã lên đó từ hồi thanh niên năm 1933 mà đến hơn 60 năm khi đã U.90, nhà nghệ sĩ vẫn lên tàu hỏa về lại chốn xưa; hay từ khi vào nghề cho đến cuối đời chỉ dùng một chiếc máy ảnh hiệu Zeiss Ikon của Đức sản xuất từ năm 1928. Với chiếc “máy ảnh cổ lỗ sĩ” như vậy nhưng cụ vẫn thành danh ở một đẳng cấp quốc tế, một nhân chứng lịch sử quan trọng, “nói có sách, mách có ảnh”. Vui chuyện, nghệ sĩ kể lại một kỷ niệm thật khó quên năm 1945 khi cách mạng mới thành công: “...Anh em đồng ý cho tôi chụp. Tôi đến bên xe, lễ phép với Bác: “Xin cụ bỏ mũ xuống cho con chụp ảnh”. Tôi còn nhớ rõ lúc đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang còn ngồi bên cạnh Bác. Bác vui vẻ bỏ mũ xuống, để đầu trần. Tôi chụp được một kiểu Bác Hồ ngồi trong xe ô tô, có tướng Giáp ngồi bên cạnh.” (Một thế kỷ cầm máy).

Một điểm nhấn đặc sắc của tập sách là tập hợp một số bài đã đăng tải trên các báo phỏng vấn các văn nghệ sĩ thành danh có tên chung là “Những cuộc chuyện trò xuyên thế kỷ”, với những tên tuổi: Phạm Thiên Thư, Nguyễn Duy, Trần Kim Trắc, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Trịnh Công Sơn. Từ những tâm tình của họ qua việc trả lời phỏng vấn đã hé lộ nhiều điều thú vị mà không phải ai cũng biết.

Một Phạm Thiên Thư, thi sĩ lừng lẫy với những vần thơ trác tuyệt bay bổng được nhạc sĩ chắp cánh trong các ca khúc của mình như “Ngày xưa Hoàng Thị”, “Đưa em tìm động hoa vàng”. “... Tuy nhiên đời thơ của Phạm Thiên Thư còn có hàng chục tác phẩm khác, là những viên ngọc lung linh, kỳ lạ; ông đã từng được trao 2 Kỷ lục Việt Nam về thơ và còn nhiều kỷ lục thơ khác chưa được ghi nhận. Một chiều cuối năm Canh Dần, trong tiết trời se lạnh hiếm hoi ở đất Sài Gòn, chúng tôi tìm đến quán cà phê Hoa Vàng để gặp nhà thơ Phạm Thiên Thư. Trước cổng cà phê Hoa Vàng (tên quán đặt theo tên một bài thơ của Phạm Thiên Thư), mặc cho dòng đời xuôi ngược, ồn ã, một ông già trên 70 tuổi như ngồi thiền, trầm tư nhả những vần thơ minh triết.” (Phạm Thiên Thư - Ngày xưa Hoàng Thị). Nguyên mẫu của bài thơ “Ngày xưa Hoàng Thị” tên Ngọ vẫn còn sống tuy đã cao niên, thế nhưng sức lan tỏa của thi ca nhiều khi không thể nào nói hết và chẳng thể nào đoán biết nổi. ...Tuy nhiên, có những chi tiết thú vị vô cùng! Sau này, có hơn 10 cô gái, có người tìm đến gặp nhà thơ và tự nhận mình là cô Ngọ. Chỉ mới cách đây vài tháng, có một cô mới 30 tuổi, đến gặp Phạm Thiên Thư và tự nhận mình là... cô Ngọ (!). Khi kể chuyện này, tôi thấy nhà thơ Phạm Thiên Thư nheo mắt cười ý vị.

Hay chuyện làm lịch thơ là sáng tạo của nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Duy, một thú chơi tao nhã và còn tính tâm linh. Thế nhưng khi trò chuyện thì thật bất ngờ mới hay rằng, phát kiến này ra đời do nhà thơ lúc ấy phải nghĩ cách... trả nợ làm nhà. Dù xuất xứ trong cảnh ngộ éo le như thế nhưng nó vẫn thành công và được đời sống trân trọng và thu nhận như một sản phẩm văn hóa tinh thần. Chính nhà thơ Nguyễn Duy khi trả lời câu hỏi về “ngôn ngữ” riêng của lịch thơ là gì? “- Làm lịch thơ phải có sự hòa nhập giữa tâm linh và kỹ thuật. Lịch thơ không phải là hàng hóa thuần túy mà còn là tác phẩm nghệ thuật. Lịch thơ có tính chất triết luận ở trong đó”. (Nhà thơ Nguyễn Duy với những “cuộc chơi” văn hóa).

Nhà văn đương đại dẫn đầu về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, khi ấy mới nổi tiếng, vốn là một nhà giáo dạy môn lịch sử, đề cập về vai trò của nó đối với văn chương, đã khẳng định một nội dung vẫn đang là vấn đề thời sự hiện nay. “Khoa học lịch sử hết sức quan trọng với nhà văn nói riêng và mọi người nói chung. Bao giờ học cái gì đấy, tôi cũng cố gắng biết cái lịch sử của nó, nó giúp cho tôi suy nghĩ hệ thống và toàn diện. Khoa học lịch sử dạy người ta khái quát. Cũng liên quan đến nhân vật lịch sử và nhân vật văn học, trong đó có các thần tượng, nhà văn nói rõ hơn quan niệm của mình cũng rất lý thú: “Thời nào, người nào cũng có thần tượng. Các thần tượng luôn thay đổi theo sự trưởng thành của tư duy thời đó, người đó. Nhân vật lịch sử là nhân vật lịch sử. Song, tất cả những người có tên tuổi đều phải dè chừng họ. Họ phải thế nào mới có tên tuổi chứ, mới được ghi nhận chứ? Biết bao nhiêu người sinh ra chết đi và vô danh... Tôi tôn trọng và khâm phục tất cả các nhân vật có tên tuổi trong lịch sử cũng như trong hiện tại. Song, không phải vì thế mà tôi không tôn trọng và khâm phục những kẻ vô danh. Đã là con người phải tôn trọng con người”. (Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - Nghề văn là một nghề gian khó).

Cuộc phỏng vấn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào năm 2000 trước khi ông rời cõi tạm ít lâu cũng có thêm những lý giải lý thú. Ví như nói về chất Huế trong ca khúc của ông dù không nói đến địa danh nào mà vẫn gợi ra quê hương Cố đô này, nhạc sĩ bảo rằng: “Tất cả những bài hát tôi viết đều mang mang một khí hậu Huế. Có Huế trong tôi và có tôi trong Huế. Vì vậy, mặc dù không cố tình nhưng không bao giờ tôi nhắc đến chữ Huế trong các ca khúc của tôi.

Càng về sau này những giai điệu của tôi càng có khuynh hướng mang màu sắc dân ca. Đó cũng là điều tự nhiên khi tâm hồn của một người đã gắn liền với những buồn vui của dân tộc mình.

Còn khi được hỏi nhạc sĩ qua ca khúc có vẻ như đắc đạo thì Trịnh Công Sơn lại không đồng tình. Ông như giải bày gan ruột: “Đừng nói đến sự đắc đạo. Tôi không phải là một nhà tu. Nếu cần ví von thì tôi chỉ là một hành giả đi qua cuộc đời này và chiêm nghiệm về sự vô thường. Mỗi ngày tôi đều có những giây phút yên tĩnh để suy tưởng và có lẽ vì thế trong một số ca khúc của tôi bàng bạc một chút thiền.” (Trịnh Công Sơn và cuộc trò chuyện cuối cùng thiên niên kỷ).

Tác giả là người luôn khát khao tìm kiếm và khám phá những điều mới lạ, thú vị của cuộc đời nói chung và thế giới văn nghệ nói riêng rồi chiêm nghiệm trong từng con chữ. Duyên bút mực và lao động chữ nghĩa đã đem lại những tác phẩm báo chí giá trị mang đậm dấu ấn riêng của ký giả Nguyễn Linh Giang.

P.X.D
(TCSH46SDB/09-2022)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...