Trang thơ Louise Glück

16:35 03/11/2021


LOUISE GLUCK
(Nobel Văn học năm 2020)

Ảnh: internet

Cuối đông

Trên thế giới tĩnh lặng, một con chim kêu
nó thức dậy cô đơn giữa những cành cây đen.


Con muốn chào đời; mẹ đã sinh thành con ra.
Có bao giờ nỗi đau của mẹ cản trở
niềm vui của con đâu?


Hãy lao về phía trước
trong bóng tối và ánh sáng đồng hiện ra
háo hức với cảm giác


như thể con là điều mới mẻ, muốn
thể hiện


tất cả sự sáng chói, hoạt bát của bản thân

không bao giờ nghĩ
điều này sẽ khiến con mất mát bất cứ thứ gì,
không bao giờ tưởng tượng ra âm thanh giọng nói của mẹ
như bất cứ điều gì ngoại trừ một phần của con -
con sẽ không nghe thấy nó ở thế giới bên kia,
không rõ ràng nữa,
không phải trong tiếng chim kêu hay tiếng người gọi,


không phải là âm thanh rõ ràng, đó chỉ là
tiếng vọng dai dẳng
trong tất cả âm thanh có ý nghĩa là tạm biệt, tạm biệt-


một dòng liên tục
gắn kết mẹ con ta với nhau.




Con ngựa

Con ngựa cho anh cái gì
Mà em không thể cho anh?


Em dõi theo anh khi anh một mình,
Khi anh cưỡi ngựa vào cánh đồng sau khu nuôi bò sữa,
Tay anh vùi trong con ngựa cái
Bờm đen sẫm.


Thế rồi em biết điều gì ẩn sau sự im lặng của anh:
khinh thị, hận em, hận hôn nhân. Tuy vậy,
anh vẫn muốn em chạm vào anh; anh khóc
Như cô dâu khóc, nhưng khi em nhìn anh, em thấy
Không có trẻ con trong cơ thể của anh.
Vậy thì là cái gì ở đó?


Không có gì, em nghĩ. Chỉ là sự vội vàng
chết trước khi em chết.


Trong giấc mơ, em đã nhìn thấy anh cưỡi ngựa
Qua cánh đồng khô ráo và sau đó
Dừng lại: cả hai tảng bộ cùng nhau;
Trong tối tăm, không ai có bóng.
Nhưng em cảm thấy chúng đang tiến về phía em
Bởi trong đêm chúng đi bất cứ đâu,
Chúng là chủ nhân của chính mình.


Hãy nhìn em. Anh nghĩ em không hiểu ư?
Động vật là gì
Nếu không bước ra cuộc sống này?




Ngã tư

Thân thể tôi ơi, bây giờ chúng ta sẽ không còn đồng hành với nhau lâu hơn nữa,
tôi bắt đầu cảm thấy một sự dịu dàng mới mẻ dành cho bạn, rất non nớt và lạ lẫm,
giống những gì tôi nhớ về tình yêu thời bé dại -
tình yêu vẫn thường khờ dại trong mục tiêu của nó
nhưng không bao giờ khờ khạo trong quyết định, cường độ của mình
thật nhiều đòi hỏi ở phía trước, thật nhiều mà không thể hứa hẹn
-
Linh hồn tôi quá sợ hãi, hung bạo;
hãy tha thứ cho sự tàn bạo của nó.
Như thể đó là linh hồn kia, bàn tay tôi thận trọng vuốt ve bạn,


không muốn xúc phạm
nhưng khao khát, cuối cùng, là thể hiện được bản chất:


nó không phải là trái đất mà tôi sẽ nhớ,
nó là bạn mà tôi sẽ nhớ.


Bùi Xuân dịch
(TCSH392/10-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Yevgeny Yevtushenko - Odysseas Elytis

  • Maiakôpxki là nhà thơ lớn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và là nhà thơ lớn của nhân loại thế kỷ XX.Thơ của ông biểu hiện nhiệt tình công dân mãnh liệt, là tiếng hát của tương lai, của chủ nghĩa Cộng sản, và tiếng thét căm giận đả phá những mặt tiêu cực trong cuộc sống Xô Viết lúc bấy giờ. Nhà thơ của quãng trường, nhà thơ hùng biện, đó là những từ để mệnh danh người nghệ sĩ kiểu mới này. Ông rất ít viết về thơ tình. Trong dịp kỷ niệm 30 năm sinh của nhà thơ. Tạp chí Văn học Xô Viết ngoài việc giới thiệu những bài thơ chủ đề công dân và xã hội nổi tiếng, còn giới thiệu 2 bài thơ tình của ông. Tâm hồn nồng nhiệt, đẩy đến tận cùng mọi sự, ngay cả lý tưởng hay tình yêu đó là bản chất của thơ Maia.

  • Hải Kỳ - Đỗ Hoàng - Nguyễn Khắc Thạch

  • Pimen Pan-tren-cô _ Xéc-gây Da-côn-ni-cốp _ Anatôn Grêtanikốp

  • Mắc-xim Tăng-kơ (tên thật là Ép-ghê-ni Skuốc-kô) là nhà thơ của đồng ruộng, đất đai, đường sá, khắp các vùng của lãnh thổ Liên bang Xô-viết và rất nhiều nước khác.

  • XERGÂY ÊXÊNHIN(Trích từ “Những khúc bi ca” và tuyển tập thơ Xergây Êxênhin)

  • Ngày 22 tháng 10 năm 1987 Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố tên người được tặng giải thưởng Nôben văn học - nhà thơ Nga sống ở Mỹ Iosif Brodsky. I.Brodsky là nhà văn Nga thứ năm được nhận giải thưởng cao quý này. Sau I.Bunhin (1933), B.Pastemnac (1958), M. Solokhov (1965), A.Xongienhixun (1970).

  • Ludmila TatianitchevaTuổi tôi

  • OCTAVIO PAZ        Tặng các nhà thơ André Breton và Benjamin Perêt

  • LTS: Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7 - 11) Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của I.Bunhin, tác giả được giải Nobel 1933.

  • LTS: TOMMY OLOFSSON (1950) là một trong những nhà thơ "sung mãn" nhất Thụy-Điển hiện nay, tác giả bảy tập thơ (tính đến 1991). Ông còn là một chuyên gia về James Joyce, có bằng tiến sĩ văn chương của đại học Lund, tác giả hoặc người biên tập nhiều công trình biên khảo, và nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng của nhật báo Thụy Điển Svenska Dagbladet. Bản dịch Thơ nguyên sơ dưới đây dựa theo bản Anh văn của Jean Pearson: Elemental Poems (White Pine Press, N.Y. 1991)

  • WISLAWA SZYMBORSKA (Nữ nhà thơ Ba Lan. Giải Nobel văn học 1996)

  • FRED MARCHANT (Mỹ)                 Tặng Diệu LinhTựa đề của bài thơ là viết sau ba mươi năm Mậu Thân. Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc về những mất mát, những nỗi đau do chiến tranh gây ra.

  • Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.

  • PAVIL BUKHARAEP - IVAN SIÔLÔCỐP - IURI SMELIÔP

  • LTS: Là nhà thơ, tác giả của ba cuốn sách về thi ca. Cùng với Nguyễn Bá Chung ông đã cùng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa. Ông là giáo sư Anh ngữ, Giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk. Ông còn là người thẩm định tác phẩm bậc thầy của Trung tâm William Joiner nghiên cứu về chiến tranh và hệ quả xã hội tại Umass Boston.Ông cũng là người giới thiệu hai cuốn sách Núi Bà Đen của Larry Heinemann và Cốm non (Green Rece) của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch ở Mỹ.

  • Baolin Cheng (Trương Bảo Lâm) là một nhà thơ thành công của “thế hệ thứ ba” các nhà thơ hiện đại Trung Quốc (thế hệ thứ nhất thuộc thời “ngũ tứ” 1919, thế hệ thứ hai được gọi là thế hệ “thơ mông lung” sau cải cách mở cửa). Hiện định cư tại San Françisco (Hoa Kỳ) với tư cách một nhà thơ song ngữ Hoa - Mỹ. Theo Paul Hoover, chủ biên cuốn “Thơ Hậu hiện đại Mỹ”, thơ Baolin Cheng sử dụng những cách thức của thơ siêu hình học- những chuyện kể nén chặt và những cấu trúc ý niệm - phục vụ cho các mục tiêu hiện thực chủ nghĩa. Những bài thơ sau đây của Baolin Cheng đã xuất bản ở Mỹ và Trung Quốc dưới hình thức song ngữ.

  • RUDYARD KIPLINGRUDYARD KIPLING (1865  Bombay - 1936 Londres) sống trong môi trường Anh-Ấn văn hóa rất cao, là một nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết Le Livre de la Jungle (Cuốn sách của rừng xanh), Kim và là một nhà thơ . Thơ ông tập trung vào  chủ đề giáo dục nhân cách và đạo đức. Bài thơ NẾU (IF) dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của ông.

  • ALLEN GINSBERG(Tôn vinh Kenneth Koch) (1)LGT: Allen Ginsberg (1926 - 1997): là một nhà thơ hậu hiện đại Mỹ nổi tiếng trong trào lưu Beat cùng với Jack Kerowack và Williams S. Burroughs. Tốt nghiệp đại học năm 1948, làm đủ thứ nghề: thủy thủ, thợ nhà in, rửa bát, điểm sách, nhân viên tiếp thị.