PHẠM PHÚ PHONG
Trong bài thơ mở đầu cho tập thơ đầu tiên Cái lùng tung (2007) của Trần Văn Hội, anh có viết rằng: “có những điều anh chưa nói với em/ đó là sự lặng im trong thơ anh” (Đó là sự lặng im), không chỉ là dự cảm, là sự ướm thử mà là định mệnh, là thi mệnh thể hiện quan niệm nghệ thuật của tác giả, trở thành tuyên ngôn cho cuộc sống và sáng tạo nghệ thuật, xuyên suốt cuộc đời và thơ ca Trần Văn Hội.
Ảnh: Báo Đắk Lắk điện tử
Trần Văn Hội làm thơ, viết báo từ thời phong trào sinh viên tranh đấu, khi anh đang là Phó Bí thư Ban cán sự Đảng Viện Đại học Huế, hoạt động bí mật dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, trong “nhóm Trương Văn Hoàng, Trần Văn Hội, Bửu Nam, Nguyễn Công Thắng… đã hình thành tập san văn nghệ Đất mới, cổ vũ xu hướng văn hóa văn nghệ dân tộc, hướng đến hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc.”(*) Là một thanh niên yêu nước, anh cũng đã gặp nhiều hoạn nạn trong cuộc đời, nhưng đã âm thầm chịu đựng và lặng lẽ vượt qua mọi gian lao thử thách để ngước nhìn cuộc đời thông qua sáng tạo thơ ca. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có lần nói đại ý rằng, con người phải có quyền được buồn, nhà thơ là người luôn sống trong ngôi nhà nỗi buồn của mình. Đời người, ai chẳng có nỗi buồn riêng. Thi nhân càng buồn hơn. Không buồn thì làm gì có thơ hay. Tôi không tin những người lúc nào gương mặt cũng hớn hở vui như tết mà lại làm được thơ, lại càng không thể có thơ hay. Những nỗi buồn, những khổ đau, những tự vấn, những phán xét, những thẩm định là những cái bắt buộc con người nhất thiết phải lớn lên và trung thực hơn, tự bóc dần cái giả dối, phải tự lọc dần cái ươn hèn, biết vượt qua cái cay đắng lắm lúc như một thứ định mệnh ập xuống đầu, tất cả những cái ấy cả khi thắng và khi thua, cả lúc được và lúc mất, nhìn một phương diện nào đó, trở nên quý giá xiết bao! Chính vì thế, những trải nghiệm về nỗi đau, những bầm dập rủi may lên rừng xuống biển, có cả những đỗ vỡ về niềm tin trong cuộc sống, không làm mất đi những cảm xúc ấm áp của tia nắng cuối ngày, mà ngược lại càng dồn nén, lắng lại, kết tủa thành những sinh thể nghệ thuật mà nội dung mang đậm đặc tâm trạng thế sự, có sức lay động tận đáy tâm hồn người đọc: “Bây giờ ở Huế mùa thu/ cũng đành lá rụng sương mù chưa em/ Nhặt giùm anh sợi tơ mềm/ chút hương hồ cạn ngó sen cuối mùa/ Trăm năm như thể trò đùa/ với em thơ dại đeo bùa trăng non/ Nhớ thăm cỏ rối dốc mòn/ gió từ thưở ấy gió còn mênh mông/ Một mình đừng bước qua sông/ lỡ khi bóng ngã giữa dòng ai hay/ Em về gió lạnh bàn tay/ dấu trong vạt áo ủ ngày nắng lên (Bây giờ ơ Huế).
Ở tập thơ thứ hai - tập Giấc mơ trôi dạt, Trần Văn Hội vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về tâm trạng thế sự - đời tư ấy, nhưng cảm quan nghệ thuật sáng rõ hơn, thi pháp biểu hiện được quan tâm chăm sóc hơn, nhất là cách bung thả về cảm xúc, cách lựa chọn về ngôn từ, lối nói điềm đạm, lắng đọng, tất cả như được chắt lọc qua cả một cuộc đời từng trải, không ít sóng gió gian nan. Quê ở làng Chuồn, Phú Vang, nhưng anh trưởng thành ở Huế, nơi có dòng sông thơ mộng chảy qua, và ai đi xa cũng cứ muốn quay về. Chàng trai xứ sở của thi ca như anh cũng không là ngoại lệ. Anh phải sống tha hương nên luôn sống trong hoài niệm, lúc nào cũng mong muốn quay về, dường như từ trong vô thức/ tiềm thức những hình tượng sống động đã trở thành nỗi ám ảnh, thành niềm hữu thức, dẫu chỉ là vô tình chứ không phải là cố ý, anh vẫn thường hay nhắc đến dòng sông (18 lần), đến những giấc mơ (15 lần), đến mong muốn được trở về, trở lại (15 lần),… hoặc hay nói đến hồn quê, mùi quê, chốn cũ, người cũ, và không dưới mười lần anh hình dung ra bóng dáng mẹ già, người đã từng “rặn đẻ tôi trên một dòng sông/ từ đó/ mặt nước xô dạt tôi lên rừng/ xuống biển/ lặn lội kiếm tìm những giấc mơ/ mẹ dặn” (Từ một dòng sông). Đối với người mẹ, con mình bao giờ cũng bé bỏng, cho dù người con đã trưởng thành, đã đi qua bao núi bao đồi, uống nước bao dòng sông, tắm mình bao biển lạ. Không biết sóng biển nào, sông nào đã vỗ vào ký ức, hay chính chân sóng ở quê nhà qua bao mùa mưa nắng bãi bồi đã làm đầy thêm ký ức, để một người đàn ông đã bước vào tuổi bảy mươi như anh, vẫn trào dâng cảm xúc khi nhớ lại những kỷ niệm xưa như vẫn còn mới tinh khôi: “vào thời mạ tôi lấy chồng/ có con/ mạ chong ngọn đèn dầu/ thức đêm/ tỉ mẩn se từng sợi chỉ/ xanh/ đỏ/ cột đồng tiền xu/ đeo vào cổ tôi trừ tà ma/ và cầu mong con mình khôn lớn/ thành người (...)/ mạ nhìn tôi lớn lên/ ngày ham chơi/ đêm ngủ mớ/ mạ tỉnh giấc lần tìm lá bùa/ đồng tiền xu vuột mất/ mạ bần thần soi đèn từng ngõ ngách/ qua vùng đất chơi bi đánh đáo/ mày ở chỗ mô hỡi đồng xu sứt mẻ/ qua bãi đá banh bến tắm sông bụi cây trốn tìm/ mày ở chỗ mô hỡi đồng tiền xu xấu xí (…)/ những lúc trái gió/ trở trời/ mạ tôi sợ vu vơ khấn thầm trời đất/ thay đồng tiền xu làm phép/ mạ vạch vào trán tôi dấu chữ thập/ bôi đen muội khói đèn/ như một lời nhắc nhủ/ đứa con của mạ/ đừng bao giờ đi lạc giữa cuộc đời” (Đồng tiền xu của mạ). Tôi biết, cho dẫu từ lúc trưởng thành cho đến bây giờ đã bước về phía bên kia con dốc cuộc đời anh phải sống xa quê, nhưng nhờ tình yêu thương bao la trong phép màu nhiệm của người mẹ, anh không bao giờ đi lạc, anh ủ hơi ấm ấy đến bây giờ để truyền vào tao nôi cho cháu nội của mình: “Ông nhớ bốn tao nôi/ Tiếng đêm đưa thao thiết/ Câu hát ru bồi hồi/ Một đời thương da diết/ Rồi Bin sẽ lớn lên/ Ngày xưa thành nỗi nhớ/ Không bao giờ nguôi quên/ Như ông, còn ngủ mớ” (Bin ơi).
Thế giới hình tượng nghệ thuật thơ Trần Văn Hội khá phong phú. Ngoài những bài thơ viết cho những người thân trong gia đình như Đồng tiền xu của mạ, Nếu có em ở Đà Lạt, Tìm lại giêng hai, Gửi cháu nội, Bin ơi, hoặc viết cho chính mình, giải tỏa những nỗi niềm đa mang đầy ắp, mà nếu không được giãi bày, nó nặng đầy chật cứng trong tâm hồn, nhưng khi tiếng thơ bật ra nó trở nên rộng rinh, sâu thăm thẳm trong những âm thanh, màu sắc rõ nét chứ không nhạt nhòa nhưng không thể xác định gọi tên. Hình tượng cái tôi trữ tình hiện lên có tính chất đồng tâm, trong các bài thơ như Tôi tìm tôi, Một tôi và…, Những giấc mơ trôi dạt, Từ một dòng sông, Ra Giêng, Suy nghĩ trước cơn giông, Ngồi ở bến sông, Mỗi ngày, Tìm lại giêng hai, Lắng nghe… Thi nhân ngước nhìn hình tượng núi sông kỳ vĩ, hình tượng những người thân như trong gia đình và bạn bè, nhất là với người bạn đời của mình trong thái độ mang chút hàm ơn: “Chẳng níu lại được những câu hỏi/ ẩn dụ ngày/ và đêm/ nhiều khi không kịp thở/ tôi mím môi rượt đuổi/ chính mình/ vỡ vụn từng dòng ngụ ngôn/ về một cuộc sống khác/ và em/ bước qua ngày thanh tẩy/ dịu dàng/ tinh khiết/ đã cứu chuộc tôi/ và những giấc mơ/ trôi dạt” (Những giấc mơ trôi dạt). Thi nhân là người “khảo thí”, luôn mang trong tâm hồn mình một ngân hàng câu hỏi trĩu nặng, khó tìm câu trả lời cho đạt độ chuẩn xác. Cái chân lý mà anh ta muốn kiếm tìm bao giờ cũng là ảo vọng xa xôi, cho dẫu có đến trăm nghìn lần đã từng gõ cửa cuộc đời dâng bao điều vấn tâm cháy bỏng. Cái bất lực trước cuộc đời, trước hư vô của trời đất, lại làm nên cái hư ảo của thi ca lấp lánh giữa nhân gian. “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Cái “thiện” đó không chỉ là thiện - ác, không chỉ hàm ý phạm trù đạo đức, mà là một tập hợp rỗng, trống trơn không có chi trong đó hết. Con người khi sinh ra tâm hồn rộng rinh như nhà thơ khi đã dốc hết cõi lòng. Nghĩa là khi anh ta nhìn cái không gian mênh mông trước mặt, nơi mà cảm xúc vừa ào ạt tràn qua, như một sa mạc không người. Bản ngã của nhà thơ cũng giống như sự bắt đầu một đời người. Nhưng tức tốc ngay sau đó lại nạp đầy năng lượng, trĩu nặng nỗi niềm đau đớn rất nhanh. Đó là sự ươm mầm cho tâm thức sáng tạo, cho sự ngân nga của nhịp điệu ngôn từ. Và, dường như trên sa mạc hun hút xa kia đã lờ mờ xuất hiện những dấu chân. Bởi chính nhà thơ đã tri nhận được cái cán đích cuối cùng không vẫn hoàn không, nhưng vẫn cứ kiếm tìm. Có chăng, cái khác của Trần Văn Hội là anh tự gõ vào chính tâm hồn mình: “Tôi tìm tôi/ Bạc tóc vẫn lớ ngớ không hiểu nổi đời mình/ Bòn mót từng giấc mơ/ Vỗ cánh” (Tôi tìm tôi).
Trần Văn Hội hầu như bất chấp mùa nào, thời tiết ra sao, bao giờ cũng kính cận, mũ bê-rê với nụ cười hiền, tuy có chút phong trần, nhưng trông phong thái có vẻ giống một triết gia hoặc là một linh mục, hơn là nhà thơ, nhà báo. Ai nói gì cũng cười. Chuyện hay cũng cười. Chuyện dở cũng nhếch môi. Chuyện gì cũng có thể cười mà không chấp, không tranh luận. Tất nhiên, chuyện buồn thì im lặng. Cái im lặng cố hữu của đời anh. Nụ cười không kiêu bạc mà cao sang. Cười và ít nói. Đúng như bản chất của thi nhân. Tôi gặp anh hàng nghìn lần, “lai rai” với anh hàng vạn cuộc, nhưng chưa bao giờ nghe anh đọc thơ, hay nghe anh kể chuyện đã từng đi đây đi đó. Hóa ra, đọc thơ anh, tôi mới biết anh cũng thuộc nòi xê dịch. Ngoài những bài thơ viết cho nơi chôn nhau cắt rốn ở quê nhà (Từ một dòng sông, Ra Giêng, Quê nội, Và nếu Huế…, Ngồi ở Blach and white, Tìm lại giêng hai), thơ anh còn in dấu nhiều miền quê của đất nước; gần thì có Ơi H’năng tôi gọi vời theo con nước, Paranưng, Lượm đá trên dòng sông H’năng; xa hơn thì có Đôi mắt Lý Sơn, Nếu Đà Lạt có em, Khi qua Ninh Chữ, Phải vậy không Phan Thiết, Gặp gỡ Vũng Tàu, Ghi chép trên đảo Bình Ba, Thăm mộ cụ Nguyễn Du, Viết ở hồ Đại Lãi, Ghi chép ở Hạ Long, Lên Yên Tử,…
Anh thể hiện nguyên lý “văn là người” rất rõ. Người anh ra sao thì thơ anh cũng vậy. Từ tâm hồn đến giọng điệu đều trầm buồn, lặng lẽ và khá kiệm lời. Thơ anh không phải bài nào cũng hay, bài nào cũng tròn tứ, cũng lưu lại ấn tượng lâu bền, nhưng ẩn bên dưới vẻ sần sùi, thô mộc có chút hiền lành, lặng lẽ là những thảm cỏ xanh thăm thẳm, trong đó, nó óng ánh những vệt sáng lung linh và tỏa ra sự ấm áp của ngôn từ. Nhiều bài thơ ngắn, rớt dòng một cách tự do, thong dong, mỗi dòng có khi chỉ một hai chữ, nhưng lại mang âm điệu lục bát khá chuẩn mực (Cái tình chi, Về nghe gió thổi, Quê nội, Ngồi ở bến sông, Không đề, Xàng xê ứ hự, Một tôi và…, Sắc không, Thế là, Tung còn, Tình tang, Lục bát, Và em, Gửi cháu nội, Lục bát (2), Thăm mộ cụ Nguyễn Du). Nhiều bài thơ, nhất là thể thơ năm chữ giàu nhạc điệu ngân nga, gần với ngôn ngữ chính văn của âm nhạc là hình tượng âm thanh (Phép thử đầu năm, Giải oan cốc, Bin ơi…), nên thơ anh đã được nhiều bạn bè phổ nhạc.
Như đã nói, Trần Văn Hội đã làm thơ từ thời tham gia phong trào sinh viên tranh đấu trước 1975. Nhưng mãi cho đến hơn ba mươi năm sau, anh mới có tập thơ đầu tay Cái lùng tung (2007) ra đời. Đến nay, lại hơn mười năm sau nữa, anh mới cho ra đời tập thơ thứ hai Những giấc mơ trôi dạt. Thơ là nghệ thuật tinh túy như rượu được chưng cất từ ngũ cốc. Ý thức đầy đủ về điều ấy nên anh viết rất chậm và cẩn trọng. Trong thế giới nghệ thuật ngôn từ, hơn ai hết, nhà thơ là người đầu tiên có trách nhiệm với từng con chữ, nếu muốn nó sinh sôi thành hình tượng, trở thành những sinh thể có sức sống lâu bền trong tâm tưởng nhiều thế hệ người đọc.
P.P.P
(TCSH367/09-2019)
----------------
(*) Lịch sử phong trào đô thị Huế 1954 - 1975 (Nhiều tác giả), Nxb. Trẻ, tr.425.
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH