PHẠM PHÚ PHONG
Trong bài thơ mở đầu cho tập thơ đầu tiên Cái lùng tung (2007) của Trần Văn Hội, anh có viết rằng: “có những điều anh chưa nói với em/ đó là sự lặng im trong thơ anh” (Đó là sự lặng im), không chỉ là dự cảm, là sự ướm thử mà là định mệnh, là thi mệnh thể hiện quan niệm nghệ thuật của tác giả, trở thành tuyên ngôn cho cuộc sống và sáng tạo nghệ thuật, xuyên suốt cuộc đời và thơ ca Trần Văn Hội.
Ảnh: Báo Đắk Lắk điện tử
Trần Văn Hội làm thơ, viết báo từ thời phong trào sinh viên tranh đấu, khi anh đang là Phó Bí thư Ban cán sự Đảng Viện Đại học Huế, hoạt động bí mật dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, trong “nhóm Trương Văn Hoàng, Trần Văn Hội, Bửu Nam, Nguyễn Công Thắng… đã hình thành tập san văn nghệ Đất mới, cổ vũ xu hướng văn hóa văn nghệ dân tộc, hướng đến hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc.”(*) Là một thanh niên yêu nước, anh cũng đã gặp nhiều hoạn nạn trong cuộc đời, nhưng đã âm thầm chịu đựng và lặng lẽ vượt qua mọi gian lao thử thách để ngước nhìn cuộc đời thông qua sáng tạo thơ ca. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có lần nói đại ý rằng, con người phải có quyền được buồn, nhà thơ là người luôn sống trong ngôi nhà nỗi buồn của mình. Đời người, ai chẳng có nỗi buồn riêng. Thi nhân càng buồn hơn. Không buồn thì làm gì có thơ hay. Tôi không tin những người lúc nào gương mặt cũng hớn hở vui như tết mà lại làm được thơ, lại càng không thể có thơ hay. Những nỗi buồn, những khổ đau, những tự vấn, những phán xét, những thẩm định là những cái bắt buộc con người nhất thiết phải lớn lên và trung thực hơn, tự bóc dần cái giả dối, phải tự lọc dần cái ươn hèn, biết vượt qua cái cay đắng lắm lúc như một thứ định mệnh ập xuống đầu, tất cả những cái ấy cả khi thắng và khi thua, cả lúc được và lúc mất, nhìn một phương diện nào đó, trở nên quý giá xiết bao! Chính vì thế, những trải nghiệm về nỗi đau, những bầm dập rủi may lên rừng xuống biển, có cả những đỗ vỡ về niềm tin trong cuộc sống, không làm mất đi những cảm xúc ấm áp của tia nắng cuối ngày, mà ngược lại càng dồn nén, lắng lại, kết tủa thành những sinh thể nghệ thuật mà nội dung mang đậm đặc tâm trạng thế sự, có sức lay động tận đáy tâm hồn người đọc: “Bây giờ ở Huế mùa thu/ cũng đành lá rụng sương mù chưa em/ Nhặt giùm anh sợi tơ mềm/ chút hương hồ cạn ngó sen cuối mùa/ Trăm năm như thể trò đùa/ với em thơ dại đeo bùa trăng non/ Nhớ thăm cỏ rối dốc mòn/ gió từ thưở ấy gió còn mênh mông/ Một mình đừng bước qua sông/ lỡ khi bóng ngã giữa dòng ai hay/ Em về gió lạnh bàn tay/ dấu trong vạt áo ủ ngày nắng lên (Bây giờ ơ Huế).
Ở tập thơ thứ hai - tập Giấc mơ trôi dạt, Trần Văn Hội vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về tâm trạng thế sự - đời tư ấy, nhưng cảm quan nghệ thuật sáng rõ hơn, thi pháp biểu hiện được quan tâm chăm sóc hơn, nhất là cách bung thả về cảm xúc, cách lựa chọn về ngôn từ, lối nói điềm đạm, lắng đọng, tất cả như được chắt lọc qua cả một cuộc đời từng trải, không ít sóng gió gian nan. Quê ở làng Chuồn, Phú Vang, nhưng anh trưởng thành ở Huế, nơi có dòng sông thơ mộng chảy qua, và ai đi xa cũng cứ muốn quay về. Chàng trai xứ sở của thi ca như anh cũng không là ngoại lệ. Anh phải sống tha hương nên luôn sống trong hoài niệm, lúc nào cũng mong muốn quay về, dường như từ trong vô thức/ tiềm thức những hình tượng sống động đã trở thành nỗi ám ảnh, thành niềm hữu thức, dẫu chỉ là vô tình chứ không phải là cố ý, anh vẫn thường hay nhắc đến dòng sông (18 lần), đến những giấc mơ (15 lần), đến mong muốn được trở về, trở lại (15 lần),… hoặc hay nói đến hồn quê, mùi quê, chốn cũ, người cũ, và không dưới mười lần anh hình dung ra bóng dáng mẹ già, người đã từng “rặn đẻ tôi trên một dòng sông/ từ đó/ mặt nước xô dạt tôi lên rừng/ xuống biển/ lặn lội kiếm tìm những giấc mơ/ mẹ dặn” (Từ một dòng sông). Đối với người mẹ, con mình bao giờ cũng bé bỏng, cho dù người con đã trưởng thành, đã đi qua bao núi bao đồi, uống nước bao dòng sông, tắm mình bao biển lạ. Không biết sóng biển nào, sông nào đã vỗ vào ký ức, hay chính chân sóng ở quê nhà qua bao mùa mưa nắng bãi bồi đã làm đầy thêm ký ức, để một người đàn ông đã bước vào tuổi bảy mươi như anh, vẫn trào dâng cảm xúc khi nhớ lại những kỷ niệm xưa như vẫn còn mới tinh khôi: “vào thời mạ tôi lấy chồng/ có con/ mạ chong ngọn đèn dầu/ thức đêm/ tỉ mẩn se từng sợi chỉ/ xanh/ đỏ/ cột đồng tiền xu/ đeo vào cổ tôi trừ tà ma/ và cầu mong con mình khôn lớn/ thành người (...)/ mạ nhìn tôi lớn lên/ ngày ham chơi/ đêm ngủ mớ/ mạ tỉnh giấc lần tìm lá bùa/ đồng tiền xu vuột mất/ mạ bần thần soi đèn từng ngõ ngách/ qua vùng đất chơi bi đánh đáo/ mày ở chỗ mô hỡi đồng xu sứt mẻ/ qua bãi đá banh bến tắm sông bụi cây trốn tìm/ mày ở chỗ mô hỡi đồng tiền xu xấu xí (…)/ những lúc trái gió/ trở trời/ mạ tôi sợ vu vơ khấn thầm trời đất/ thay đồng tiền xu làm phép/ mạ vạch vào trán tôi dấu chữ thập/ bôi đen muội khói đèn/ như một lời nhắc nhủ/ đứa con của mạ/ đừng bao giờ đi lạc giữa cuộc đời” (Đồng tiền xu của mạ). Tôi biết, cho dẫu từ lúc trưởng thành cho đến bây giờ đã bước về phía bên kia con dốc cuộc đời anh phải sống xa quê, nhưng nhờ tình yêu thương bao la trong phép màu nhiệm của người mẹ, anh không bao giờ đi lạc, anh ủ hơi ấm ấy đến bây giờ để truyền vào tao nôi cho cháu nội của mình: “Ông nhớ bốn tao nôi/ Tiếng đêm đưa thao thiết/ Câu hát ru bồi hồi/ Một đời thương da diết/ Rồi Bin sẽ lớn lên/ Ngày xưa thành nỗi nhớ/ Không bao giờ nguôi quên/ Như ông, còn ngủ mớ” (Bin ơi).
Thế giới hình tượng nghệ thuật thơ Trần Văn Hội khá phong phú. Ngoài những bài thơ viết cho những người thân trong gia đình như Đồng tiền xu của mạ, Nếu có em ở Đà Lạt, Tìm lại giêng hai, Gửi cháu nội, Bin ơi, hoặc viết cho chính mình, giải tỏa những nỗi niềm đa mang đầy ắp, mà nếu không được giãi bày, nó nặng đầy chật cứng trong tâm hồn, nhưng khi tiếng thơ bật ra nó trở nên rộng rinh, sâu thăm thẳm trong những âm thanh, màu sắc rõ nét chứ không nhạt nhòa nhưng không thể xác định gọi tên. Hình tượng cái tôi trữ tình hiện lên có tính chất đồng tâm, trong các bài thơ như Tôi tìm tôi, Một tôi và…, Những giấc mơ trôi dạt, Từ một dòng sông, Ra Giêng, Suy nghĩ trước cơn giông, Ngồi ở bến sông, Mỗi ngày, Tìm lại giêng hai, Lắng nghe… Thi nhân ngước nhìn hình tượng núi sông kỳ vĩ, hình tượng những người thân như trong gia đình và bạn bè, nhất là với người bạn đời của mình trong thái độ mang chút hàm ơn: “Chẳng níu lại được những câu hỏi/ ẩn dụ ngày/ và đêm/ nhiều khi không kịp thở/ tôi mím môi rượt đuổi/ chính mình/ vỡ vụn từng dòng ngụ ngôn/ về một cuộc sống khác/ và em/ bước qua ngày thanh tẩy/ dịu dàng/ tinh khiết/ đã cứu chuộc tôi/ và những giấc mơ/ trôi dạt” (Những giấc mơ trôi dạt). Thi nhân là người “khảo thí”, luôn mang trong tâm hồn mình một ngân hàng câu hỏi trĩu nặng, khó tìm câu trả lời cho đạt độ chuẩn xác. Cái chân lý mà anh ta muốn kiếm tìm bao giờ cũng là ảo vọng xa xôi, cho dẫu có đến trăm nghìn lần đã từng gõ cửa cuộc đời dâng bao điều vấn tâm cháy bỏng. Cái bất lực trước cuộc đời, trước hư vô của trời đất, lại làm nên cái hư ảo của thi ca lấp lánh giữa nhân gian. “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Cái “thiện” đó không chỉ là thiện - ác, không chỉ hàm ý phạm trù đạo đức, mà là một tập hợp rỗng, trống trơn không có chi trong đó hết. Con người khi sinh ra tâm hồn rộng rinh như nhà thơ khi đã dốc hết cõi lòng. Nghĩa là khi anh ta nhìn cái không gian mênh mông trước mặt, nơi mà cảm xúc vừa ào ạt tràn qua, như một sa mạc không người. Bản ngã của nhà thơ cũng giống như sự bắt đầu một đời người. Nhưng tức tốc ngay sau đó lại nạp đầy năng lượng, trĩu nặng nỗi niềm đau đớn rất nhanh. Đó là sự ươm mầm cho tâm thức sáng tạo, cho sự ngân nga của nhịp điệu ngôn từ. Và, dường như trên sa mạc hun hút xa kia đã lờ mờ xuất hiện những dấu chân. Bởi chính nhà thơ đã tri nhận được cái cán đích cuối cùng không vẫn hoàn không, nhưng vẫn cứ kiếm tìm. Có chăng, cái khác của Trần Văn Hội là anh tự gõ vào chính tâm hồn mình: “Tôi tìm tôi/ Bạc tóc vẫn lớ ngớ không hiểu nổi đời mình/ Bòn mót từng giấc mơ/ Vỗ cánh” (Tôi tìm tôi).
Trần Văn Hội hầu như bất chấp mùa nào, thời tiết ra sao, bao giờ cũng kính cận, mũ bê-rê với nụ cười hiền, tuy có chút phong trần, nhưng trông phong thái có vẻ giống một triết gia hoặc là một linh mục, hơn là nhà thơ, nhà báo. Ai nói gì cũng cười. Chuyện hay cũng cười. Chuyện dở cũng nhếch môi. Chuyện gì cũng có thể cười mà không chấp, không tranh luận. Tất nhiên, chuyện buồn thì im lặng. Cái im lặng cố hữu của đời anh. Nụ cười không kiêu bạc mà cao sang. Cười và ít nói. Đúng như bản chất của thi nhân. Tôi gặp anh hàng nghìn lần, “lai rai” với anh hàng vạn cuộc, nhưng chưa bao giờ nghe anh đọc thơ, hay nghe anh kể chuyện đã từng đi đây đi đó. Hóa ra, đọc thơ anh, tôi mới biết anh cũng thuộc nòi xê dịch. Ngoài những bài thơ viết cho nơi chôn nhau cắt rốn ở quê nhà (Từ một dòng sông, Ra Giêng, Quê nội, Và nếu Huế…, Ngồi ở Blach and white, Tìm lại giêng hai), thơ anh còn in dấu nhiều miền quê của đất nước; gần thì có Ơi H’năng tôi gọi vời theo con nước, Paranưng, Lượm đá trên dòng sông H’năng; xa hơn thì có Đôi mắt Lý Sơn, Nếu Đà Lạt có em, Khi qua Ninh Chữ, Phải vậy không Phan Thiết, Gặp gỡ Vũng Tàu, Ghi chép trên đảo Bình Ba, Thăm mộ cụ Nguyễn Du, Viết ở hồ Đại Lãi, Ghi chép ở Hạ Long, Lên Yên Tử,…
Anh thể hiện nguyên lý “văn là người” rất rõ. Người anh ra sao thì thơ anh cũng vậy. Từ tâm hồn đến giọng điệu đều trầm buồn, lặng lẽ và khá kiệm lời. Thơ anh không phải bài nào cũng hay, bài nào cũng tròn tứ, cũng lưu lại ấn tượng lâu bền, nhưng ẩn bên dưới vẻ sần sùi, thô mộc có chút hiền lành, lặng lẽ là những thảm cỏ xanh thăm thẳm, trong đó, nó óng ánh những vệt sáng lung linh và tỏa ra sự ấm áp của ngôn từ. Nhiều bài thơ ngắn, rớt dòng một cách tự do, thong dong, mỗi dòng có khi chỉ một hai chữ, nhưng lại mang âm điệu lục bát khá chuẩn mực (Cái tình chi, Về nghe gió thổi, Quê nội, Ngồi ở bến sông, Không đề, Xàng xê ứ hự, Một tôi và…, Sắc không, Thế là, Tung còn, Tình tang, Lục bát, Và em, Gửi cháu nội, Lục bát (2), Thăm mộ cụ Nguyễn Du). Nhiều bài thơ, nhất là thể thơ năm chữ giàu nhạc điệu ngân nga, gần với ngôn ngữ chính văn của âm nhạc là hình tượng âm thanh (Phép thử đầu năm, Giải oan cốc, Bin ơi…), nên thơ anh đã được nhiều bạn bè phổ nhạc.
Như đã nói, Trần Văn Hội đã làm thơ từ thời tham gia phong trào sinh viên tranh đấu trước 1975. Nhưng mãi cho đến hơn ba mươi năm sau, anh mới có tập thơ đầu tay Cái lùng tung (2007) ra đời. Đến nay, lại hơn mười năm sau nữa, anh mới cho ra đời tập thơ thứ hai Những giấc mơ trôi dạt. Thơ là nghệ thuật tinh túy như rượu được chưng cất từ ngũ cốc. Ý thức đầy đủ về điều ấy nên anh viết rất chậm và cẩn trọng. Trong thế giới nghệ thuật ngôn từ, hơn ai hết, nhà thơ là người đầu tiên có trách nhiệm với từng con chữ, nếu muốn nó sinh sôi thành hình tượng, trở thành những sinh thể có sức sống lâu bền trong tâm tưởng nhiều thế hệ người đọc.
P.P.P
(TCSH367/09-2019)
----------------
(*) Lịch sử phong trào đô thị Huế 1954 - 1975 (Nhiều tác giả), Nxb. Trẻ, tr.425.
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)