Nguyễn Văn Thanh - Nhất Lâm - Nguyễn Thường Kham - Phan Văn Chương - Chu Lê - Trần Vạn Giã - Nguyễn Hoàng Thu - Trần Phương Kỳ - Nguyễn Tất Độ - Lưu Xông Pha
"Khóc" - tranh của HS Nguyễn Khắc Tài
NGUYỄN VĂN THANH
Ngón chân của mẹ
Con đường xưa mẹ đi
Lưng gập xuống đường níu khô chân mẹ
Mười ngón chân bấm sâu vào đất nẻ
Thành “Giao chỉ ”tự lúc nào
Con có biết đâu
Mẹ một đời
Gội mưa bão quăn vào áo lá
Biến sình lầy thành ruộng lúa
Đất cằn khô cây trái trĩu bốn mùa
Mẹ đi từ châu thổ Sông Hồng
Phù sa ngập bàn chân mẹ
Phù sa quặn đẻ
Mẹ dâng đời ngàn vạn búp sen
Những cánh sen mỏng manh
Xanh thót lòng trời
Hương thơm dậy đất
Con chưa biết xót nỗi đau
Mắt mẹ rạn chân chim
Búp tay rưng rưng cửa Phật
Con đường mẹ đi
Dấu chân bấm vào mạch đất
Ngón cái chìa ra
Thành đất Mũi Cà Mau
Nơi tận cùng đất nước.
NHẤT LÂM
Chiều vàng
(Giỗ đầu bạn thơ Hải Kỳ)
Bạn nằm dưới bạch đàn lau cỏ
Ta về thăm ngày đã cạn chiều
Buốt tâm can giữa trời hoang vắng
Động tình cây cô quạnh Kỳ ơi...!
Vẫn biết mất còn là con tạo
Mấy ai ba vạn sáu ngàn ngày
Bạn đã sống một đời trọn đạo
Cuộc du ca chấm hết từ nay
Rượu tưới đẫm cho thơ huyệt mộ
Khói hương bay man mác không trung
Bạn và ta chỉ có gang đất
Sao thăm thẳm xa đến ngàn trùng
Chiều tàn vàng lau vàng cỏ lá
Xám khúc chiều sỏi đá đi qua
Xin từ biệt Kỳ ơi lụi nắng!
Bạn nằm dưới cỏ khói nhạt nhòa.
NGUYỄN THƯỜNG KHAM
Vẫn tôi
Người em lại gặp - vẫn tôi
Vàng tơ neo mảnh trăng trôi giữa trời.
Rưng rưng ánh mắt thay lời
Vòng tay nhỏ bé nối đời mong manh.
Không gương vỡ, chẳng gương lành
Men chưa kịp ngấm đã thành giấc mơ.
Nửa mái đầu, tóc bạc phơ
Vẫn tình si, vẫn daị khờ - vẫn tôi!
PHAN VĂN CHƯƠNG
Tháp nghiêng
(Gửi nhà thơ Hoàng Vũ Thuật)
Torre pendente di Pisa nghiêng lời cầu nguyện
chúa
đầu thai
mỗi người cảm ngọn Pisa
riêng
phần hồn cao hơn
tháp
tiếng chuông lọc thinh không
trời xanh hình bóng
khác
ảo ảnh
dòng sông cắt thánh đường Pisa như chiếc bánh thánh
vượt 294 bậc chưa với được tiếng ngân
của sổ tâm hồn
khép
mở
cơn đau lệch bóng
bước nghiêng chiều
lập trình lâu đài ngôn ngữ
rút ruột
bóng chữ
tháp nghiêng(*).
--------------
(*) Tên tập thơ của Hoàng Vũ Thuật
CHU LÊ
Dạ vũ
Sự khác biệt là quá lớn,
Khoảng không dồn lại trong chiếc buồng thang máy ngột ngạt
Chật hẹp và than thở
Các mối nối rạn ra những chiếc đinh tán sặc sỡ màu như nấm độc…
Buổi dạ vũ bắt đầu,
Dàn nhạc đều đều ra hiệu cho những vị khách mang mặt nạ vào
Vũ điệu nào bắt đầu cho đôi chân mê mải
Tự do,
Khoảng khắc nào chững lại cho cái nắm bắt nhẹ nhàng rơi vào hụt hẫng.
Bản nhạc vẫn đều đều,
Những bước chân rộn lên
Rộn lên,
Tung vào không trung dấu hiệu bùng nổ
Sự dãn nở không đều của đôi dòng cảm xúc vỡ tung
Mãnh liệt,
Gõ vào sàn, vũ điệu bốc lửa của khát khao đêm,
Dậm dựt,
Khắc khoải
Rồi mê mải vỡ tan trong cái cúi chào đầy ý tứ.
Chiếc buồng thang máy qua chật hẹp và ngột ngạt,
Mùi hương nào hòa quyện,
Điên rồ và nức nở,
Dồn nén mà say mê
Chỉ vậy thôi,
Chỉ vậy thôi cho một đêm nhung nhớ,
Một khắc khoải trải dài theo chân phố,
Khập khiễng đau cho buổi rồ dại buông mình đu đưa trên đôi giày mảnh dẻ của nàng Lọ Lem,
Chỉ vậy thôi cho chàng hoàng tử lãng du bắt đầu cuộc hành trình dài dằng dặc của cuộc đời mình,
tìm lại thoáng chốc đam mê khờ khạo…
TRẦN VẠN GIÃ
Lửa của em
Anh là hòn than
Nguội dần
Trong lửa của em
Ngọn lửa cháy trong hoàng hôn trần thế
Em nhen
Anh là hòn than nguội tàn
Tội nghiệp bếp mùa đông
Xót cây củi mục
Bay đi. Bay đi. Bay đi
Chạy đi. Chạy đi. Chạy đi
Gió trên cao bạo tàn và ngấu nghiến khói
Anh là hòn than
Nguội tàn
Trong lửa của em
Ngún khói câu thơ bên bờ ảo vọng
Và
Đêm dị mộng trên lằn ranh ác mộng
Câu thơ chập chờn
Sương. Khói. Hư vô…
Bất chợt ai viết trên cát Nha Trang:
“Giã từ cơn mưa vô thường
Rơi trên số phận anh đen đúa”
Hàng triệu triệu năm
Lăn theo chuyến xe luân hồi bầm dập
Thôi ngày sắp tàn trong lửa của em
Đêm nay
Anh ngún sợi khói cuối cùng
Nhen nhúm câu thơ tình thánh thiện
Có vết sẹo tuổi
Ngả theo bóng thời gian.
NGUYỄN HOÀNG THU
Lộng lẫy mãi trong tôi
Hạnh phúc cho lòng tôi biết ơn
Đôi mắt Mẹ và bàn tay ôm ấp
Cả bầu sữa tâm hồn
Từ tháng ngày tuổi thơ tôi uống
Có hạnh phúc nào hơn.
Mẹ đằm thắm yêu thương
Là Tổ quốc đầu tiên tôi có được
Cụ thể êm đềm
Bên chiếc nôi mây khi tôi vừa thức giấc
Khuôn mặt mẹ hiện ra, dịu dàng
Trong mắt tôi ngời sáng
Khuôn mặt Mẹ nồng nàn
Chưa một ngày xa vắng
Trong đời tôi tin yêu.
Năm tháng dần qua
Tổ quốc trong tôi lồng lộng đất trời
Có núi cao vời vợi
Có biển đảo xa khơi
Có những dòng sông đồng lúa vàng
Có kinh thành đường phố cổ
Có màu cờ mang hồn nước thiêng liêng
Có tuổi thơ tôi và bầu sữa Mẹ ngọt ngào.
Mẹ là một phần Tổ quốc thân yêu
Lộng lẫy mãi trong tôi
Gần gũi êm đềm
Ru hồn tôi vào khí tiết non sông.
TRẦN PHƯƠNG KỲ
Kỷ niệm với Bùi Giáng ở sg năm 81
Nguyễn Du mê Thúy Kiều viết Đoạn Trường
Tân Thanh có đầu có đuôi dài mấy
ngàn câu; tau mê ca sĩ Bích Chiêu
bức bách ngôn ngữ Việt Nam cho tới
cùng: trời đêm tinh tú chạy vòng… ruổi
rong về BÍCH ngạn hồng vàng CHIÊU.
NGUYỄN TẤT ĐỘ
Cà phê sáng
Hãy uống cạn ly cà phê sáng nay
của anh đi! Trong ly cà phê của
tôi có giọt nước mắt. Trong ly của
anh có giọt máu hồng và cho tôi
nói nhỏ điều này. Hãy cho tôi đi
bằng đôi chân của anh vì chân tôi
không còn nữa. Cho tôi sờ cuộc đời
bằng đôi tay của anh vì tay tôi
không còn nữa. Cho tôi nhìn cuộc đời
bằng đôi mắt của anh vì mắt tôi
không còn nữa. Cho tôi nói tiếng người
bằng thanh quản anh vì cổ họng tôi
không còn nữa... Hãy uống nốt những giọt
cà phê còn lại của anh, những giọt
cà phê vui sướng, những giọt cà phê
muộn phiền, những giọt cà phê trung tính,
tôi nói nhỏ điều này: Hãy cho tôi...
LƯU XÔNG PHA
Những bông hoa nở trên bầu trời
Những bông hoa mặt đất
Nở rộ trên bầu trời
Bầu trời sáng mặt đất cũng sáng
Những bông hoa mặt đất
Di trú lên bầu trời
Bầu trời sáng mặt đất không sáng
Lễ hội im lặng
Phế tích sương địa đàng tra khảo
Lễ hội lãng quên
Những vỉa rêu đồng ca hiu quạnh
Không là hoa
Rễ chia niềm vui với đất
Sẻ nỗi buồn trong đất
Những nụ cười bừng lên trên bầu trời
Sáng thêm sáng
Tối thêm tối
Hoa rơi rơi cùng sứ mệnh gian khổ
Rễ miệt mài khai quật hương thơm.
(SH284/10-12)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi