Thơ Sông Hương 04-88

10:05 10/06/2014

Hải Bằng - Nguyễn Văn Dinh - Nguyễn Khắc Thạch - Phạm Tấn Hầu - Trần Bá Đại Dương - Tôn Nữ Ngọc Hoa

Nhà thơ Hải Bằng - Ảnh: internet

HẢI BẰNG

Đợi đò

Giận mái chèo quên lời dặn dò
Em về bên ấy ở đây lo
Trách ai thời trước sinh ra bến
Mà để đời ta mãi đợi đò.


Lời tựa cho thơ

Suốt đời viết mãi cuộc chia ly
Hàng triệu câu thơ chẳng nghĩa gì
Chỉ tủi - thời gian - khi bạc tóc
Em cầm tuổi trẻ của tôi đi...




NGUYỄN VĂN DINH

Nghĩ về thơ

Thơ phải nói điều cần phải nói
Chớ ngụy trang hoa sói hoa hòe
Thơ hiểu thấu băn khoăn thời đại
Nỗi vui buồn nhân loại sẻ chia


Trước biển

Nói gì với biển, biển ơi!
Nghìn năm con sóng không thôi vỗ bờ
Riêng em từ bấy đến giờ
Vẫn chưa hiểu hết bến bờ trong anh




NGUYỄN KHẮC THẠCH

Ông già bán vé số

Tôi gặp ông mỗi sáng qua đường
Chiếc gậy chống lưng còng như gẫy
Chiếc gậy nối bàn tay run rẩy
Dắt ông về phía phố vui đông

Hai mươi đồng chiếc vé mỏng manh
Mang sức nặng triệu đồng hy vọng
Lời rao mời bay cao khoảng trống
Ông bán rủi may cho số phận người đời

Tôi cũng từng mua vé ông chơi
Từng hy vọng và từng thất vọng
Lạnh như tiền cũng làm cháy bỏng
Nỗi đam mê trần tục con người

Cuộc chơi này trâng tráo buồn vui
Ngang ngữa đám dân thường quan chức
Cái ngưỡng cao phập phồng hư thực
Nằm trong tay trần trụi ông già

Xác vé mù như xác pháo bay qua
Cuộc chơi vẫn ông già hấp dẫn
Nhưng chính ông chẳng có gì bí ẩn
Ngoài mấy đồng lời khi hết số tay không…




PHẠM TẤN HẦU

Cải trang

đi qua dãy hành lang này
âm u và chật hẹp
như ẩn dụ
sự theo dõi rập rình

hãy nhớ tới vai mình, anh tự nhủ
và cố lắng nghe
để lặp lại
đúng theo lời tiếng vọng

anh cần biết kiềm chế, vì giọng anh ngân vang
dễ bị kích động bởi cá tính và mơ ước trẻ trung
anh có thể quên đi sức chịu đựng
của một sân khấu cổ xưa

Điều đó ám ảnh anh
như một nỗi sợ hãi mơ hồ
anh chưa bao giờ giám thử
cái vinh quang vượt quá vai mình

Tưởng như mọi chuyện sắp sẵn cả rồi
từ đạo cụ, y trang, kẻ nhắc tuồng
và khán giả, anh biết
có quá nhiều đạo diễn cải trang

                                                12-87


TRẦN BÁ ĐẠI DƯƠNG

Trăng
            Nhớ L.V.T.

Những đêm trăng
cái bóng của bạn và tôi
hiện rõ

Trăng
Như chiếc kính chiếu yêu
Mỗi người soi vào
Thấy
            hiện lên
- Con bọ cạp châu Phi;
                        Một bụi mâm xôi;
Một chú khỉ nhắng nhít
                        thích nhảy nhót và bắt chước;
Hay một con bê non với đôi mắt ướt;
vân vân và vân vân...
Đôi khi
            thấy hiện lên
một cái gì gần như
bóng dáng CON NGƯỜI
nhưng điều này, theo tôi
không nhiều
            cũng không ít.

Những bi kịch
thường xảy ra về đêm
khi chúng ta
            một mình,
với vầng trăng
                        trên đỉnh trời
vằng vặc!

                                    Huế, rằm thu 1987.



TÔN NỮ NGỌC HOA

Ghi giữa hai mùa

Ẩn dưới làn sương tím biếc
biết bao dáng nét lạ lùng
cứ như chưa bao giờ có
núi đồi mờ ảo chập chùng

cứ như chưa bao giờ có
dòng sông dài phía vô cùng
sợi nắng cuối ngày rối gió
đan cài nên bao nhớ nhung

cái rét đầu mùa chớm buốt
nửa như khói chia xa
nửa như níu đôi chân bước
dùng dằng những dáng mây qua

khóm trúc che gương mặt ai
long lanh kìa đôi con mắt
đâu đây tiếng lá rơi rơi
khẽ khàng chạm vào hoang vắng

ai hát hay là chim hót
mà nghe thánh thót bên trời
tôi ngỡ hồn tôi đọng lại
trong từng hạt sương chơi vơi

dần trôi dần trôi dần trôi
bóng chiều giữa miền tĩnh lặng
tôi đứng yên nghe tim mình
chìm vào tiếng đêm vang vọng

mùa thu bàng hoàng quay gót
nào hay lóng lánh giọt buồn
nhỏ vào mùa đông non nớt
tan trong tiếng chuông trầm buông

                                        Lập đông 87

(SH30/04-88)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.

  • ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi