Bạch Diệp - Nguyễn Hữu Minh Quân - Nguyên Tiêu - Nguyễn Thiền Nghi - Phan Lệ Dung - Lê Viết Xuân - Nguyễn Tấn Tuấn - Ngô Thiên Thu - Đinh Ngọc Diệp - Trịnh Bửu Hoài
Tranh của HS Nguyễn Hóa
BẠCH DIỆP
Một ngày
Dây leo vẫn bò men cửa sổ
Tôi tóc ngắn
Huýt sáo gọi cổng
Trèo qua hàng rào
Không có những người đàn bà xách làn đi chợ
Hay vội vã hôn con trước cổng trường
Siêu thị thất thần những khuôn mặt đàn ông
Tay xách vai mang
Vụng về giữa quầy thực phẩm
A… a ngày nắng
Cà phê góc phố quý bà váy ngắn, áo hoa, chân gõ nhịp…
Mặt trời tủm tỉm
nhấm nháp vạt sương
Dâu tươi, cà rốt, nho và cam
Điệu vũ mùa hè trong chiếc máy kem
Tươi như màu hồng tháng sáu
Mới thấy phố mình nhiều hoa thế
Restaurant, quán nhậu vỉa hè cũng nhiều
Chiều sóng sánh men
Chuyện cục diện chiến trường Libya
Sao Chổi sắp va vào các hành tinh
Giấc mơ Freud hay cuộc thi hoa hậu cuối tuần
…
Một ngày thế là cũng đủ
Bên ngọn đèn chong
Những người đàn ông chờ bữa.
NGUYỄN HỮU MINH QUÂN
Sau cơn lũ
Mưa đền cây sau một ngày lũ rút
Trăng vẫn về nguyên vẹn đấy thôi
Em áo trắng bên chiều đợi gió
Một cánh chim bay về phía mặt trời
Bước chân huyền hồ ai để lại
Ngỡ em về trắng tóc chiêm bao
Xóm nhỏ mênh mông trắng bờ trắng bãi
Người trắng tay chờ hoa trái mùa sau
Bồi đắp phù sa bãi bờ sau lũ
Ai đứng chờ ai tận cuối cơn đau
Bài thơ cũ chờ nửa vầng trăng cũ
Nghiêng bên nào cho khỏi khuyết nhau
NGUYÊN TIÊU
Hoài khúc tháng chạp
Gió thu cuối tràn bao cảm xúc
Lá lăn tăn trò chuyện vỉa hè
Chân dấn bước dẫm chiều kỷ niệm
Thơ vô ngôn tâm thức lắng nghe.
Ta từng mơ những điều không thật
Mải mê hong nắng ấm huyễn không
Tự vẽ ra chân trời hư ảo
Vùi trong cơn mộng mị thắt lòng.
Rồi một ngày heo may thoảng đến
Nắng xa xôi còn đọng chói ngời
Cơn giá rét trùm lên tâm thức
Choàng vai thơ thiền định non khơi!
NGUYỄN THIỀN NGHI
Khói
Môi khói bay
Chân theo về phía núi
Lim dim cái nhìn phù du
Cái nóng đan lưng
Hạt mưa châm thịt
Vạc vàng lúa chín vào tay
Thủng thẳng cắt
Thủng thẳng gặt
Gặt cả mặt trời vào gùi mây
Máu đất chưa khô
Gió vằn tiếng rừng rách áo
Kéo bóng đời đắp rẫy
Thủng thẳng khói lối về
Chiều ểnh môi đau
Con đường ướt nhoẹt chân ngày
Khói nồng men đất
Mưa hoàng hôn xổ đậm màu xám
Chiết ra khoảng lặng mù
Đêm giọt tiếng không
Không biên giới cội nguồn
Quẩn quanh trong cái quanh quẩn
Đêm khói về đâu
Những túi đèn lượn lờ
Muốn hóa thân đom đóm
Rồi cũng tắt ngấm
Lưu đày trong vòm trời đen kịt.
PHAN LỆ DUNG
Nỗi niềm
Rồi anh sẽ quên
con đường cỏ may
buổi chiều khói lên nhuộm xám
tiếng hát ai lạc loài
và mùi hoa cúc mộng mị
gặp anh
tháng năm
gió thổi nóng trên tóc
đàn chim cánh nâu phơi bóng trên sông lanh chanh vẫy cánh
như những người yêu nhau hẹn hò
tôi ném hòn đá thia lia
mặt nước hồn nhiên gợn sóng
đôi mắt anh thoáng buồn
lúc đó những chiếc lá khô
trôi động đậy
và trời sắp mưa
người đàn bà mặc áo hoa
trên đường đi chợ về
bước nhanh như gió
mấy chiếc xe chở lúa nặng trĩu
thản nhiên như người dưng
phả bụi mù trời
tôi nhìn gió thổi trên sông
anh nói mấy câu muộn màng cay đắng
xa xa phía cổng làng
đám mây đen ồ ạt
đuổi theo sợi khói mỏng manh
Rồi anh sẽ không còn nhớ...
và mưa
mưa tháng năm mù mịt
như muốn che kín nỗi niềm.
LÊ VIẾT XUÂN
Gặp lại lời ru
Lâu lắm rồi, mới gặp lại lời ru
Trong liên hoan Hát ru người mẹ trẻ
Đánh thức trong anh một thời thơ bé
Lời mẹ ru thăm thẳm vọng về
Mái tranh nghèo thui thủi dưới rặng tre
Tiếng võng đưa nồm nam kẻo kẹt
Lời mẹ ru bỗng trầm thao thiết
Đưa anh vào giấc ngủ bình yên
Anh đã đi ngang dọc khắp miền
Lúc vấp ngã, vịn lời ru đứng dậy
Đi sao hết những lời ru ấy
Đời người không thể thiếu lời ru…
Em hát ru sao lắm nỗi tâm tư
Nghe khó nhọc như người leo dốc
Anh không biết nên cười hay khóc
Em hát ru con, ai hát ru mình?
NGUYỄN TẤN TUẤN
Buổi sáng vùng cao
Buổi sáng vùng cao
Cái lạnh đầu đông len vào kẻ đá
Những đứa trẻ còng lưng đạp xe
Con dốc đến trường nghiêng ngã vòng quay
Hạt chữ nảy mầm trên tán rừng hòa quyện lối mây
Chào mào ngậm sương tìm tia nắng
Buổi sáng vùng cao
Ngực núi phập phồng làn hơi trắng
Gió lao xao hát lời rừng xanh thầm lặng
Lưng chừng dốc vắng, sơn nữ vớt mây làm khăn choàng địu con
lên rẫy
Khúc khuỷu suối reo, gập ghềnh đá nhảy
Trong veo mắt rừng, chợt ven đường cánh hoa dại nguyên sơ
Buổi sáng vùng cao
Chiếc gùi lên nương còn đẫm cơn mơ
Em gieo hạt yêu thương vào mùa cơm nếp mới
Lũ ong tìm hoa
Cần mẫn dòng mật thơm chắt chiu từ đại ngàn vời vợi
Vành khuyên thánh thót lưng trời!
Buổi sáng vùng cao
Ngỡ ngàng hạt sương rơi
Lưng dốc đẫm mồ hôi, chú bé gùi tương lai vào từng con chữ
Ta gùi đam mê trong lời ru sơn nữ
Ngơ ngác lũ nai rừng
Mai xa bản làng, lời ru nào níu giữ bước đa đoan?
NGÔ THIÊN THU
Nguyễn Du trong cõi Đạm
Chiếc thoa ngọc bích Trà Châu
Gởi cho chàng Nguyễn đêm sầu Thăng Long
Vấn vương khúc Phụng Cầu Hoàng
Trở về bối rối một dòng Hương. Mơ
Đạm Tiên thánh thót âm xưa
Mắt buồn rơi ướt vạn mùa thu bay
Thoa đâm áo não ngón tay
Hồ Cầm nhỏ máu xót cay vô bờ
Giấy hồng nhan hóa thành thơ
Thả vào cõi Đạm mịt mù bóng mây.
ĐINH NGỌC DIỆP
Đồng dao
Bao nhiêu trăng khuyết
Trên hồ gương đầy
Bao nhiêu ao cạn
Trăng tròn đầu cây
Chết khô lòng đĩa.
Ngày sau ai vớt
Lý Bạch ôm trăng
Bàn tay san hô
Cào lên quả đất
TRỊNH BỬU HOÀI
Bên thềm xuân
Có phải là em. Đóa mai vàng buổi sáng
Làm mặt trời úp mặt ở trong mây
Trên môi em những giọt sương vừa cạn
Má ướt mềm nắng gió cũng cuồng say
Có phải là em. Nụ tầm xuân vừa chín
Giữa đêm đông chỉ đợi phút giao mùa
Hình như cả trần gian nầy bịn rịn
Đón em về rực rỡ tuổi hồng xưa
Có phải là em. Loài cỏ non huyền thoại
Trải hết nhân gian tấm thảm diệu kỳ
Anh như sương rùng mình quấn lại
Trong hồn em lớp lớp kén tình si
Có phải là em. Đóa mai vàng buổi tối
Đêm ba mươi vẫn sáng một chân trời
Cõi lòng anh ngập đầy mầu trăng mới
Đường yêu thương ta đi suốt cuộc đời
(SH311/01-15)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.