Những lần gặp Tế Hanh: trò chuyện với dòng sông

10:43 23/02/2009
THANH THẢO                           6 năm nay, kể từ cái đêm thơ nhạc kỷ niệm 40 năm đường 559 do nhà thơ Phạm Tiến Duật dẫn chương trình, trong đêm ấy Tế Hanh vì quá xúc động khi nhớ lại chuyến đi qua Trường Sơn của mình đầu năm 1974, ông đã bị xuất huyết não. 6 năm ấy, không thể có một cuộc phỏng vấn hay “gặp gỡ” nào được thực hiện với Tế Hanh, đơn giản vì ông không nói được. Tôi nghĩ, 6 năm nay, Tế Hanh chỉ còn trò chuyện với dòng sông của mình, dòng sông của đời mình, trong im lặng. Vì thế, những cuộc trò chuyện tôi kể sau đây đều thuộc về thời gian trước khi Tế Hanh lâm trọng bệnh.


“MÌNH MUỐN VIẾT MỘT TRƯỜNG CA VỀ DUNG QUẤT”
Năm 1997, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thực hiện một phim chân dung Tế Hanh theo đơn đặt hàng của Hội Nhà văn Việt Nam. Dĩ nhiên, “nhân vật chính”-nhà thơ Tế Hanh-
được trân trọng mời về Quảng Ngãi, về tận quê ông ở Bình Dương-Bình Sơn để “đóng phim”. Được quen với Tế Hanh từ hơn 20 năm trước, tôi vẫn biết Tế Hanh là người thật thà, rất thật thà và có vẻ không quen “trình diễn” trước đông người. Ông nói chuyện thơ không cuốn hút như Xuân Diệu, không sắc sảo như Chế Lan Viên. Và tôi nghĩ, chắc ông cũng “đóng phim” không xuất sắc như Nguyễn Tuân hay một số nhà văn nhà thơ khác. Tôi nhầm! Dù không “diễn” theo kiểu diễn viên chuyên nghiệp trước ống kính, nhưng Tế Hanh vào vai “hơi bị được”. Ông cứ thật thà và bình dị như thế trước ống kính, cũng không khác khi ông chuyện trò với chúng tôi bên ấm trà hay thảng hoặc bên chai bia. Chính cái thật không vẽ vời của ông đã khiến Nguyễn Thụy Kha có được những thước phim chân dung rất thuyết phục.

Có lần, trong “kịch bản”, Tế Hanh có về Dung Quất để “diễn xuất”. Chúng tôi tháp tùng ông ra tận bờ biển vịnh Dung Quất, nơi sẽ là cảng dầu khí gì đó. Thực ra lúc bấy giờ chẳng thấy cảng dầu ở đâu, chỉ gặp một bờ biển đẹp thì rất đẹp nhưng... bẩn cũng cực bẩn. Đầy phân người tươi rói và cả khô cứng. Tôi với Thụy Kha phải dìu Tế Hanh đi từng bước thận trọng trên bãi cát, sợ ông dẫm phải “lựu đạn” gài. Thời gian ấy mắt Tế Hanh đã bị đau nặng, gần như ông không nhìn thấy gì, hoặc chỉ nhìn lờ mờ. Quay phim xong, cả đoàn chúng tôi lên một quán cóc phía trên bãi biển và gọi vài con mực nướng, mấy chai bia Dung Quất-bia Quảng Ngãi sản xuất -
để “liên hoan”. Tế Hanh tuy chỉ nhấm nháp chút bia “quê nhà” nhưng ông rất hào hứng nâng ly với chúng tôi. Ông đâu ngờ chính vào lúc ấy, ông đã giúp cho nhà máy bia Dung Quất những hình ảnh quảng bá sản phẩm có một không hai: nhà thơ Tế Hanh uống bia Dung Quất ngay tại... Dung Quất! Quảng cáo như thế thì tuyệt vời chứ ạ! Sau này, tôi có hỏi ông giám đốc bia Dung Quất: có gì không ông? Ông ta cười khà khà: “No, I don’t know” (không, tôi không biết!). Đúng là “hết biết”. Trong câu chuyện tâm tình bên vịnh Dung Quất, chợt Tế Hanh nói: “Vùng này hồi xưa gọi là thôn Tuyết Diêm. Đây là thôn của diêm dân - những người làm muối.

Hồi nhỏ mình có trọ học ở đây một thời gian. Dân ở đây nghèo lắm. Nếu ta làm được Dung Quất cho dân Tuyết Diêm đổi đời thì không mừng nào bằng! Mình muốn viết một trường ca về Dung Quất. Mình có một khoảng thời thơ ấu ở đây. Mình muốn viết...”. Chúng tôi đều lặng người nghe ông nói. Năm 1997, Tế Hanh đã 76 tuổi (ông sinh năm 1921 - tuổi Tân Dậu - chúng tôi vẫn đọc đùa ông: “Liên Xô nở trước đời Ông... 4 tuổi). Vậy mà ông vẫn khát khao viết được một bài thơ dài về quê hương mình. Trong khi chúng tôi còn trẻ hơn ông rất nhiều, lại cứ mải bia bọt rong chơi, chỉ thỉnh thoảng ghé Dung Quất viết vài bài... báo. Mà không hẳn đã ngợi ca. Lời bộc bạch chân tình của Tế Hanh khiến cả đoàn chúng tôi cảm động. Nhưng cũng rủi mà may, là nếu ông bắt tay vào viết cái trường ca ấy, số phận nó chắc cũng long đong như... nhà máy lọc dầu Dung Quất, chẳng biết lúc nào và bao giờ có câu kết thúc.

SÁNG CÔ ÁO ĐỎ CHIỀU CÔ ÁO XANH  
Năm 1994, tôi được nhà xuất bản Đà Nẵng mời tham gia vào Hội đồng biên soạn và tuyển chọn một tập thơ Miền Trung thế kỷ hai mươi. Nhà thơ Tế Hanh là chủ biên công trình này. Lại có được một khoảng thời gian chúng tôi sống cùng Tế Hanh để làm việc và... lai rai. Dạo đó mắt Tế Hanh đã yếu lắm. Nghe nói Ông được đi nước ngoài chữa mắt, nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm là mấy. Chúng tôi làm việc tập thể, và theo kiểu “tuyên đọc” từng bài thơ đã sơ chọn để Tế Hanh nghe và thẩm định. Ngồi với nhau như thế ngày này qua ngày khác cũng rất mệt, nhưng tôi thấy Tế Hanh nghe rất chăm chú và có những nhận xét xác đáng. Ông là người tinh tường trong thẩm thơ. Chỉ khổ một nỗi là nhà thơ ở xứ ta nhiều quá, bản thảo thơ lại càng nhiều nên chúng tôi đọc khan cả cổ mà vẫn chưa hết.

Tế Hanh vẫn kiên nhẫn ngồi nghe, không hề tỏ ra mệt mỏi, dù tôi biết ông rất mệt. Thỉnh thoảng cũng có những lúc thư giãn, chúng tôi ngồi uống bia và tán chuyện linh tinh. Tế Hanh rất hồn nhiên trong những lúc ấy, ông tham gia nhiệt tình với đám trẻ chúng tôi. Có lần, chị giám đốc nhà khách tỉnh ủy-nơi chúng tôi ở- hớn hở đến chào nhà thơ Tế Hanh. Buổi sáng, chị đến chào. Buổi chiều, chị lại... chào đến. Chúng tôi kín đáo nhìn nhau cười: thế này, khéo có chuyện(?). Đột ngột, trong lần “chào buổi chiều” của người đẹp U... 50, Tế Hanh chợt nói, bằng giọng Quảng Ngãi “gốc” của ông: “Buổi sáng cô mặc áo đỏ, buổi chiều cô mặc áo xanh, đẹp quá!” Chúng tôi nhìn nhau, chưng hửng: chết, hoá ra ông cụ còn... nhìn thấy. Nhìn đúng nữa chứ! Chị giám đốc nhà khách được nhà thơ lớn khen... trúng phóc, hai má chợt đỏ rựng lên trên nền áo... xanh.

“MÌNH THÍCH THƠ HIỆN ĐẠI LẮM, NHƯNG...”
Tế Hanh thời chưa đau mắt nặng ông rất mê đọc sách. Ông là một trong những nhà thơ Việt đọc thơ Tây nhiều nhất.Vậy mà giọng thơ Tế Hanh vẫn rất mộc mạc, thật hồn nhiên và với ông, kỹ thuật thơ, dù là kỹ thuật tân kỳ, vẫn không khiến ông quan tâm bằng chính cảm xúc và sự hồn nhiên, đôn hậu. Có lần, cách đây đã hơn 20 năm, trong dịp về Qui Nhơn, ông nói với tôi: “Mình thích thơ hiện đại phương Tây, nhất là thơ hiện đại Pháp”. Tôi hỏi ông thích ai trong những nhà thơ Pháp hiện đại, Tế Hanh nói: “Mình thích , nhất là những sáng tác thời kỳ sau của ông mà ở ta chưa dịch. Thơ trôi chảy như một dòng sông lớn. Mình thích Eluard. Thơ Ông trong veo nhưng rất khó nắm bắt. Mình thích thơ Rene Char, một nhà thơ Pháp tham gia kháng chiến chống phát xít nhưng làm thơ u ẩn như một thiền sư Phương Đông. Mình thích thơ Saint-John-
Perse, thơ ông này có kiến trúc nguy nga và ào ạt như sóng trào. Mình thích Andre Breton, nhưng chỉ thích phần lý luận thơ ca của ông này, chứ không thích thơ mấy. Mình thích...” Tôi nghe như nuốt từng lời của ông. Người làm thơ vẫn thường học nhau, lớp trước truyền cho lớp sau những thu nhận và suy ngẫm, những tri thức và sự từng trải. Tôi đã học được ở Tế Hanh, Xuân Diệu, Văn Cao... rất nhiều. Uyên bác như thế, nhưng Tế Hanh làm thơ rất thật thà và hồn nhiên. Ông vẫn là ông, cho tới cuối đời.

NHỚ CON SÔNG QUÊ HƯƠNG
Nếu 6 năm qua, trong bệnh tật, vẫn còn một cái gì đó trong Tế Hanh, cái đó tôi nghĩ chính là dòng sông quê hương ông. Trong lần làm phim chân dung Ông năm 1997, chúng tôi đã có dịp cùng Tế Hanh về quê Bình Dương của ông: “Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới/Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”. Hai câu thơ đã nói lên hết cái “lý lịch” của làng Đông Yên quê Tế Hanh. Trong lần về quê ấy, cũng nhờ yêu cầu của đạo diễn mà chúng tôi được cùng Tế Hanh đi thuyền trên dòng sông Trà Bồng đoạn chảy qua Bình Dương quê ông. Dạo ấy vẫn còn những chiếc cầu tre bắc ngang sông, và tôi ít thấy một dòng sông nào nước xanh trong đến thế! Chúng tôi như mê đi trong cái mát mẻ của dòng sông, của những “bờ tre ríu rít tiếng chim kêu”, của những “mặt nước chập chờn con cá nhảy...”. Dòng sông bỗng trở nên đẹp hơn, lung linh huyền ảo hơn kể từ khi có bài thơ Nhớ con sông quê hương của chính đứa con dòng sông ấy. Dòng sông chính là quê hương, chính là người Mẹ của Tế Hanh, và Ông đã để hết tâm hồn và tình cảm của mình vào bài thơ đã và sẽ sống mãi cùng dòng sông quê hương ông.
“Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy, lòng tôi như suối tưới...”         
Ra đi từ dòng sông và trở về với dòng sông, thơ Tế Hanh là cuộc chuyện trò thầm thỉ không dứt với con sông thân yêu của đời mình. Và chính ông cũng là một dòng sông, một dòng sông bình dị và đầy xúc cảm, một dòng sông biết chắt chiu từng gàu nước ngọt cho những người dân Việt thực thà đôn hậu và không thể sống thiếu một dòng sông. Nhà thơ như ông, thực không còn gì phải ân hận khi cuối cùng được hoá thân vào chính dòng sông thương thiết nhất đời mình: dòng sông quê hương.
 Quảng Ngãi 17/3/2005
T.T

(nguồn: TCSH số 194 - 04 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN XÊ
                      hồi ký

    Buổi sáng mùa thu ngày 20-9-1940. Nơi nhà thương Nam ở Quy Hòa những bệnh nhân già yếu đang run lên vì gió lạnh từ biển thổi vào.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Tôi đang chuẩn bị cho những trang cuối của số tạp chí này thì được tin từ thành phố Hồ Chí Minh điện ra: Bác Nguyễn Tuân đã mất! Sững sờ và xúc động quá! Tôi như không muốn tin.

  • PHAN NGỌC MINH 

    Từ lâu, tôi mong ước có một chuyến đi xem và vẽ Kinh Thành Huế. Ý tưởng ấy đã thực hiện vào Thu 1995. Lần ấy, được trên mười bức ký họa, những cơn mưa cứ kéo dài, cuối cùng, tôi đành rời Huế trong tâm trạng đầy lưu luyến.

  • TẠ QUANG SUM

    Lần lửa hơn 30 năm tôi mới về lại thăm Thầy. Ngôi nhà số 51 Hồng Bàng vẫn “ Trầm mặc cây rừng ” như ngày xưa lũ học trò chúng tôi có dịp ngang qua. Cầu thang dẫn lên căn gác nhỏ yếu ớt rung lên dưới chân mình, hay….mình run! Tôi chẳng thể nào phân định được, trong phút giây bồi hồi xao xuyến ấy.

  • NGUYỄN THỊ THỐNG

    Tôi tên là Nguyễn Thị Thống - con gái của cố họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung. Tôi rất vui mừng, xúc động và thấy rất may mắn được tới dự buổi lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của bố tôi tại thành phố Huế vừa qua do Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên Huế tổ chức. Tới dự buổi lễ này, tôi được nghe và nhớ lại những kỷ niệm về bố tôi. Những kỷ niệm không bao giờ phai mờ trong ký ức.

  • NAM NGUYÊN

    Thực ra, tôi gọi cuộc đi này là hành hương. Hành hương, nghe có vẻ cao siêu nhưng y phục xứng kỳ đức mà thôi.

  • (Lược thuật Hội thảo “Giá trị văn học Thừa Thiên Huế - những định hướng bảo tồn)

  • TRẦN THỊ KIÊN TRINH Đã không ít lần tôi được nghe những câu chuyện của các anh kể về một thời trai trẻ. Tuổi trẻ hiến dâng, tuổi trẻ xuống đường, tuổi trẻ lên rừng kháng chiến và những đêm không ngủ.

  • THANH HẢI SHO - Hôm ấy, Nha Trang đỏ nắng. Tôi cùng anh bạn nhà báo lần đến số 46 đường Yersin tìm một ông già. Đến nơi, vừa kéo chuông chủ nhà vội vàng mở cổng. Trước mắt tôi là một ông già ngoài 80, dáng người đậm, da trắng,  mang cặp kính cận bự chác mỗi bên độ nửa bàn tay… ông già ấy chính là nhà thơ Giang Nam, tác giả bài thơ “Quê hương” nổi tiếng.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ Giữa năm 1967, anh Thanh Hải và tôi được điều động từ Thành ủy Huế về Ban Tuyên huấn Khu ủy Trị - Thiên - Huế. Mấy ngày đi đường, chúng tôi nói nhiều về vùng đất và con người quê hương.

  • MAI VĂN HOANThời còn là sinh viên khoa Văn trường Đại học Sư phạm Vinh (1967 - 1971), chúng tôi thường gọi thầy Hoàng Ngọc Hiến là thầy Hiến. Đó là cách gọi thân mật của những học sinh vùng quê miền Trung đối với những thầy giáo trường làng. Lên đại học chúng tôi vẫn giữ nguyên thói quen ấy.

  • NGUYỄN QUANG HÀNhững ngày trên chiến khu, báo Cờ giải phóng và báo Cứu lấy quê hương ở chung trong một mái nhà, cùng ăn cùng ở cùng làm.

  • PHẠM THƯỜNG KHANH - PHẠM LINH THÀNHTheo tiếng Latinh, thuật ngữ intelligentia - trí thức chỉ những người có hiểu biết, có tri thức, tầng lớp xã hội này bao gồm những người chuyên lao động trí óc, có trình độ chuyên môn cao.

  • NGUYỄN THANH TUẤN           Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

  • NGÔ MINH Sau ba tháng kêu gọi, hơn 250 văn nghệ sĩ, trí thức và những người Việt mến mộ Phùng Quán ở Việt Nam, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Ba Lan, Úc, Thụy Sĩ v.v, đã nhiệt tình góp cát đá xây lăng mộ nhà thơ Phùng Quán - bà Vũ Bội Trâm ở Thủy Dương, Huế.

  • HỒ THẾ HÀHằng năm, sự kiện hân hoan và sôi động nhất của văn nghệ sĩ Huế là kết quả thẩm định và xét tặng thưởng công trình, tác phẩm VHNT xuất sắc của Liên hiệp Hội.

  • Ngày 11 tháng 10 năm 2010, đoàn Trái tim người lính (Mỹ) do tiến sĩ, bác sĩ tâm lý, nhà văn Edward Tick dẫn đầu đã đến thăm và giao lưu với Hội Nhà văn Việt Nam tại Hà Nội. Đoàn của tổ chức Trái tim người lính có nhiều người là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam, I-Rắc; các bác sĩ, giáo viên, nhà báo, mục sư và cả học sinh trung học. Buổi gặp gỡ đã diễn ra trong tình cảm ấm áp, thông cảm, chia sẻ quá khứ, vì hiện tại và hướng tới tương lai. Chiến tranh và hòa bình được nhắc đến nhiều hơn cả trong các câu chuyện và thơ của cả bạn và ta. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý là người được dự buổi gặp gỡ giao lưu cảm động này, anh đã có bài viết gửi Sông Hương, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. SH

  • LÊ TRỌNG SÂM(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế)Dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên và có sự giúp đỡ nhiều mặt của Chi hội Văn nghệ Liên khu 4, cuộc gặp mặt lớn của giới văn nghệ sĩ trong tỉnh tại thôn 2 làng Mỹ Lợi trong vùng căn cứ khu 3 huyện Phú Lộc vào tháng 10 năm 1950 phải được tôn vinh như là Đại hội đầu tiên, Đại hội lần thứ nhất của anh chị em văn nghệ tỉnh nhà. Nó là một cái mốc quan trọng mở ra một thời kỳ mới.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế)Chiến dịch Mậu Thân 1968 đang cần quân để đánh vào thành phố, trước tình hình ấy, chúng tôi được huy động vào quân đội, và sau những tháng tập mang vác nặng, tập leo núi, tập bắn, tập tiến nhập, chúng tôi được điều vào Bác Đô (đó là bí danh Thừa Thiên Huế lúc bấy giờ).

  • VÕ MẠNH LẬPKỷ niệm 30 năm ngày mất nhà thơ Thanh Hải (1980 - 2010)