PHẠM TẤN HẦU
Tình yêu luôn là một huyền thoại và lịch sử kể qua câu chuyện Huyền Trân.
Và giống như một người mù
Tôi trở lại quê hương dưới mùi thơm của hoa nhài.
P.NERUDA
Ảnh: internet
Những con chim calăng hót ở phương nam
Làm ấm trái tim ta
Khi hòa cùng điệu lý
Nước non ngàn dặm
Không đổi lời ca dao
Không đổi một tiếng ru hời
Cho gươm giáo
Ta không đi với sắt thép lạnh lùng
Của ngươi. Với khoá xích han rỉ
Làm thương tích cả mùa xuân
Ta không đi với đám cận thần
Gom đủ áo mão xênh xang
Vào xó góc vinh quang. Như thương lái
Gom thứ hàng hoa
Ta đi với manh áo lụa
Cùng vẻ đẹp khôn nguôi
Của trang huyền sử
Như gió
Nhẹ nhàng mở ra một mùi hương
Trầm quế
Ngậm đầy trong tiếng hót
Của những con chim ca lăng
Ở phương nam
Xa tắp
Này đây, những đất đai ân cần
Đánh thức từng hạt giống
Như đánh thức nhịp đập nào
Trong trái tim ta
Này đây những đền đài bí ẩn
Những bậc cấp nâng niu
Manh áo lụa lạc loài
Như nắng sớm mai
Nâng niu tháp cổ
Này đây gạch nâu
Xếp trên gạch nâu
Khít khao từng cặp
Của yoni và linga
Và thời gian
Là câu chuyện kể
Ta vốn là đứa con dòng mẹ
Dành cuộc đời cho hát ca
Vì đó là điều luôn chia sẻ được
Kể cả khi đau đớn phân lìa
Ta theo những dòng sông nàng Apsara
Vừa tắm gội
Để đổ dồn về nhảy múa
Cho những lễ hội
Tắm đầy khát vọng
Của tháng năm
Để mùa màng sinh nở
Thêm những nàng Apsara tinh khôi
Quay cuồng trong vũ điệu mới
Quay cuồng và bay đi
Manh áo lụa của ta
Yêu kiều trong gió
Phương nam
Và đất đai lại được tẩy trần
Trong lò nung gốm
Như màu da ta nhuộm nắng phương nam
Và tiếng hát ta
Vang đi
Thanh bình trong lời chim
Những con chim ăn mía ăn trái thanh trà
Ăn mùa dâu đất
Ăn hết cả trái tim ta
Để tình yêu
Luôn được trở về
Trong huyền thoại mới.
(SDB8/3-13)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.