Nhà văn Bùi Ngọc Tấn nơi ngõ nhỏ, đời thường

10:46 27/01/2015

DƯƠNG THỊ NHỤN

Tôi biết nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung là hàng xóm cũ của tôi những năm 90 của thế kỉ trước. Chị Dung là cháu ruột lại gần nhà ông ở phố Điện Biên Phủ nên rất thân thiết với ông. Tôi chỉ nghe chuyện và đọc truyện của nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn

Mãi sau này khi chuyển về làm biên tập văn xuôi tại Tạp chí Cửa Biển tôi mới được gặp ông thường xuyên. Con người ông bao năm vẫn ân cần, nhiệt tình cho đến khi ông không thể đến Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng được nữa vì căn bệnh ung thư phổi quái ác.

Căn nhà nhỏ ở gác 2 trong ngõ 10 phố Điện Biên Phủ luôn mở rộng cửa đón khách, bất kể khách là ai, làm gì và ở đâu, bởi nhà dù hẹp nhưng hai ông bà già lúc nào cũng muốn có tiếng người. Nhiều khi con ngõ nhỏ có hàng bánh đa quá chật chội vì đoàn khách từ xa đến là các cháu sinh viên. Họ ríu rít đứng ngồi rồi bày biện ăn uống ngay tại nhà ông. Đọc tác phẩm của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, họ muốn được ông kí tặng làm kỉ niệm. Ông có nhiều người bạn tri âm tri kỉ song không ít những người mới quen, và bất kể là ai cũng nhận được ở ông sự thân ái. Cuộc đời hơn tám mươi năm theo ông là có lãi, bởi qua bao nhọc nhằn, ông vẫn đứng vững và ngày càng khẳng định tên tuổi của mình trên văn đàn. Bạn văn và độc giả hâm mộ có khi lặn lội vài trăm cây số tới thăm ông, được gặp con người ông bằng da bằng thịt mới thỏa, và rồi họ lại vội vã ra đi. Những lần được khách tới thăm, ông luôn hể hả vui cười, có gói chè chai rượu ngon đều đem đãi khách. Ông đã cười tít mắt kể chuyện có lần được một người hâm mộ biếu nước mắm, trong đó có phần của dịch giả Dương Tường, ông đã nói với dịch giả là không đem nước mắm đi được, để lại. Thế là ông được hai phần. Không ai có thể quên nụ cười đôn hậu trên khuôn mặt khắc khổ của ông. Lối kể chuyện rủ rỉ hàng tiếng đồng hồ không làm khách mệt, khách chán, vì nỗi vất vả cơ cực, cả những nỗi đau tinh thần như được ông nén chặt lại, lấy ra dần dần, từ từ từng tí một.

Mấy anh em văn nghệ Hải Phòng hay rủ nhau đến nhà ông chơi. Ông gọi điện nhờ lấy hộ Tạp chí Cửa Biển. Đó chỉ là cái cớ để anh em bác cháu ngồi hàng giờ đồng hồ chuyện trên trời dưới biển, và rồi cuối cùng vẫn là chuyện văn chương. Mỗi khi có truyện được in, được dịch ông bảo muốn khoe với các em. Hôm mua được căn phòng bên cạnh, ông cười nói, đi lại và khoe đám cây cảnh xung quanh. Sim là giống dại, thế mà được thuần chủng khi về nhà ông, nở hoa to và đẹp hơn sim dại. Thiết mộc lan, mai chiếu thủy, vạn niên thanh, ngâu… đua nhau mọc. Ông không tỉa tót cầu kì mà để chúng phát triển tự nhiên. Để chúng được tự do, ông bảo thế.

Nhà rộng hơn, ông có thể ngắm được mặt trời, được đón ánh sáng chan hòa từ phía. Cuộc sống của ông bà không dư dả gì, thu nhập lương hưu hàng tháng hơn 3 triệu bạc phải co kéo rất khéo, nếu ốm đau hay có gì đột biến là phải nhờ đến con. Thỉnh thoảng ông bà lại có cuộc “Nam tiến” để thăm con cháu, cũng là để chữa bệnh. Ông bị khớp nặng, nhiều khi không đi lại được. Qua chị gái tôi biết ở Vĩnh Bảo có ông thầy thuốc chữa khớp giỏi, tôi nhờ lấy thuốc cho ông. Uống thuốc thấy dễ chịu, ông phấn khởi lắm, khi thì trực tiếp đạp xe đến Hội chơi, khi thì gọi điện chuyện trò rất lâu. Tôi nói bác cứ uống thoải mái, thuốc Nam ấy mà. Sau nhờ nhà thơ Nguyễn Đình Minh, cứ khi nào ông cần là anh Minh lại cho anh em mang đến. Song bệnh khớp đã mấy chục năm không khỏi được, nó cứ dai dẳng hành ông. Những lần vào thăm con gái về, ông bà cũng khỏe hơn được một thời gian rồi đâu vẫn hoàn đấy.

Bệnh khớp không làm ông gục ngã trên giường bệnh mà lá phổi mới là vấn đề. Những ngày cuối cùng ông đau lắm. Nhưng cơn đau vừa dứt, có ai đến thăm là ông cố gắng trò chuyện. Ông nói với chúng tôi, giờ mới biết ung thư là thế nào, tại mình viết về ung thư nhiều quá.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Vùng đất địa linh nhân kiệt đã sinh ra một người con yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình tha thiết. Tham gia vào đoàn quân tiếp quản Thủ đô 1954, là phóng viên Báo Tiền Phong sau đó ông trở lại quê nhà và mãi gắn bó với mảnh đất đầu sóng ngọn gió. Cuộc đời ông không chỉ những người yêu văn chương biết, hiểu, thông cảm và chia sẻ. Nhưng bất chấp tất cả, ông vẫn đứng dậy và ngày càng được mọi người yêu mến. Điều đó được ông giãi bày trong văn học.

Văn chương là nghiệp, đã dính vào là không bỏ được, ông đã tâm sự như thế. Một số tác phẩm ra đời sau hơn 20 năm “tạm nghỉ” đã đánh dấu một Bùi Ngọc Tấn khác. Độc giả tìm đọc văn Bùi Ngọc Tấn ngày càng nhiều, vì nhân vật và tác giả không cần phải tương tác, mà gần như đồng nhất. Ông viết vì tình yêu con người, yêu cuộc đời và khát vọng sống trong con người bệnh tật đầy mình. Đọc Viết về bè bạn, tác phẩm tập hợp hai cuốn hồi kí Rừng xưa xanh lá Một thời đã mất, Bùi Ngọc Tấn đã làm sống lại bức tranh văn học nghệ thuật một thời tưởng đã lùi vào dĩ vãng. Thời bao cấp với “khẩu phần tinh thần, khẩu phần vật chất đều được tiêu chuẩn hóa và phân phối… Một thời mà khi nhớ lại, bỗng thấy mình đã là những anh hùng, đã vượt qua quãng đời tưởng như bịa, không thể nào tin được”. Cuộc sống dù khó khăn đến mấy song vẫn qua đi, chỉ có tình người còn lại. Từng gương mặt bạn bè hiện lên với những góc khuất đầy khó khăn gian khổ nhưng vẫn ngời sáng nhân cách làm người. Và họ vẫn sống mãi, cho dù không ít người trong các trang sách đã an nghỉ cõi vĩnh hằng. Với tiểu thuyết Biển và chim bói cá lại là cách kể chuyện hiện thực mà ông một thời gắn bó. Đời sống của những anh chàng thủy thủ tại Liên hợp đánh cá Biển Đông vừa bi vừa hài, những nghịch lý cuộc sống được mặc nhiên thừa nhận khiến độc giả vừa thích thú vừa day dứt, và những ai đã sống vào thời ấy mừng, mừng vì đã chứng kiến và vẫn sống để được hồi tưởng lại. Vẫn là thói xấu của thời bao cấp, khi mà mọi thứ đều được tiêu chuẩn hóa và phân phối, từ cách làm đến cách nghĩ. Xin trích một đoạn: “Thuyền trưởng Mây nói với Cương: “Giá mày đi với tao, hai thằng bổ sung cho nhau. Một thằng kinh nghiệm, một thằng lí thuyết…”. Cương cười: “Lý thuyết học nhanh thôi. Nhưng kinh nghiệm của anh bạc đầu mới có được.” Cương tự trách mình đã có thói xấu ấy. Thói xấu do gần như cả đời làm thuyền phó dự bị, nên không tự tin, cứ dựa theo “thời tiết” của người đối thoại. Thói xấu nói lấy lòng người khác. Lý thuyết học nhanh thôi. Phải cày cuốc năm năm. Phải trực chiến nhà trường tuần này sang tuần khác. Phải ăn đói đến run chân run tay và khi đi qua cổng bảo vệ chớ có hát “cuộc đời vẫn đẹp sao tình yêu vẫn đẹp sao”, bởi vì rất nguy hiểm, nhà trường cho là mỉa mai châm chọc, có thể dẫn đến bị đuổi học. Phải có tài cho vào mồm cái bánh rán bà Miêng căng tin vừa vớt từ chảo ra rá, mỡ còn sôi xèo xèo mà bà ấy không biết. Hay lấy trộm của nhà bếp cái chân giò vừa luộc xong cũng nóng như vậy nhét vào cạp quần ung dung thong thả đi về ký túc xá như chẳng có gì phải vội vàng để mấy anh em cùng buồng lấy manh xơ lam xẻ ra chấm muối uống rượu thưởng thức chiến công. Mỗi chi tiết được viết ra với giọng văn khi thản nhiên, khi dí dỏm để đằng sau đó là quan điểm sống của một thời hiện ra. Bùi Ngọc Tấn là thế, ông cứ thâm trầm hiền lành trong cuộc sống, để ngẫm ngợi cho những trang sách. Không ngạc nhiên khi các tác phẩm của ông được tái bản nhiều lần, cả trong và ngoài nước, và khi Biển và chim bói cá được giải thưởng Henri Quefenlec tại Liên hoan sách và biển diễn ra tại Pháp năm 2012.

Các tác phẩm của nhà văn Bùi Ngọc Tấn từ năm 1995 đến nay: Một thời để mất (1995), Những người rách việc (1996), Một ngày dài đằng đẵng (1999), Chuyện kể năm 2000 (2000), Rừng xưa xanh lá (2002), Biển và chim bói cá (2008), Viết về bè bạn (2014). Về giải thưởng Henri Quefenlec đã nói, còn của Hội Nhà văn Việt Nam, Báo Văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm… Và giải thưởng lớn nhất là của độc giả. Ông đã, đang và còn sống mãi.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn đã ra đi vào lúc 6 giờ 15 phút ngày 18/12/2014 giữa ngày đông giá. Dòng người đưa tiễn ông dài tới nửa cây số trong không khí trang nghiêm và thành kính. Đám tang ông không kèn đồng, trống phách ồn ào, tiếng khóc than của con cháu dường như cũng được nén lại. Chỉ biết người rất đông, ngoài thân bằng cố hữu, còn cả những người hâm mộ ông từ khắp nơi. Nếu đọc được những chia sẻ của mọi người trên các trang ma- ng xã hội, chắc ông sẽ rất vui, vì ai cũng tiếc thương một con người. Đó là Bùi Ngọc Tấn.

D.T.N
(SH311/01-15)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)

  • ĐẶNG SĨ THIỆNThời bao cấp, ăn còn đói mà thơ lại hay. Sang thời nay ăn thừa thãi thì người ta lại không quan tâm đến thơ, thậm chí quay lưng lại với thơ (lời Bằng Việt).