“Ai biết trong lòng tôi - có nỗi khổ tâm nào không nói được”

11:01 08/04/2009
THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

Tôi thích thơ Thái Ngọc San, dù anh làm thơ ít, in thơ còn ít hơn. Có vẻ anh không quá ăn thua với chuyện thơ phú, nhưng phải đọc thơ anh mới biết, anh không thể sống thiếu thơ, vì cũng như lúc ngồi trong chiếu rượu với anh em, San làm thơ để giải toả, giải thoát, giải vây cho chính mình. Anh không làm thơ để được cái gì, cũng không làm thơ để mất cái gì. Anh làm thơ chỉ để nói một điều: “Ai biết trong lòng tôi - Có nỗi khổ tâm nào không nói được”. Vậy thôi. Ai chả có những nỗi khổ tâm riêng của mình, San chắc cũng vậy. Với tháng năm, tuổi tác và sự từng trải, đôi khi ta nhìn đời bình thản hơn, chịu đựng hơn, thậm chí xuê xoa hơn.

Nhưng Thái Ngọc San còn là nhà báo. Anh làm báo THANH NIÊN, ban đầu, chắc cũng giống như tôi, là để kiếm đồng vào đồng ra nuôi mình và gia đình, trước khi có những ước vọng hay tham vọng xa xôi hơn, lay trời chuyển đất hơn. Bây giờ làm báo có vẻ được, chứ hồi San mới làm cho báo TN, báo cũng còn nghèo và anh em làm báo còn nghèo hơn. Những lần ra Huế, tôi đều gặp San. Không phải để bàn chuyện làm báo, vì cũng chẳng có gì để bàn, hay huyên thuyên khắc khoải đọc thơ, vì cũng không lấy đâu nhiều thơ để đọc. Chúng tôi gặp nhau chỉ để uống mấy ly, nói vài câu, có khi chẳng nói gì. San cười cười, tôi cũng cười cười, vậy là đủ.

Có lẽ so với nhiều bạn bè khác của San, tôi ít gần anh hơn. Nhưng không vì thế tôi bớt quí San. Bài thơ Về những con đường khô cây của San, tôi đọc từ ngày còn ở chiến trường Nam Bộ, và tôi thích anh. Thơ hồi ấy ở các đô thị Miền Nam không phải ít. Thơ có xu hướng đấu tranh, có xu hướng phản kháng cũng không ít. Nhưng bài thơ này của Thái Ngọc San vẫn có một giọng điệu riêng, một từ trường riêng của nó. Đúng như tôi hình dung, tác giả bài thơ giống hệt như bài thơ con đẻ của anh. Đây là “cha giống con”, vì tôi biết “con” rồi mới quen “cha”. Thơ San nén lại, khắc khoải nhưng không tỏ ra như vậy. Anh không biết làm dáng, dù sau này, thỉnh thoảng nghe anh em nói, anh cũng ăn trầu cho “hoà đồng” với các mệ, với người Huế. Nhưng Thái Ngọc San không hề là “nhà Huế học” như một số bạn bè anh. Anh tưng tưng, nói nửa câu, cười nửa miệng, không thích hợp với một nhà nghiên cứu. Anh lại hay rượu, lại mơ mơ màng màng đến mức qua đường để xe tông, anh đâu thích hợp với vai nhà Huế học trầm tư nói năng khúc chiết. Hai lần bị tai nạn trong vòng 6 năm, lần sau nặng hơn lần trước, nhưng cũng là người khác tông vào anh, chứ San chưa vì say hay tỉnh mà tông ai. Anh thực ra là người rất hiền, người lúc nào như cố nén một cái gì, cố dấu một cái gì. “Và tình yêu buồn như viên gạch cũ- ở phía con đường kia”.

Tình yêu buồn như thế sao? Quả tình, không dễ hiểu thơ, kể cả thơ mình thích, thơ của người mình quen. Hôm kia giờ, từ lúc biết San đã rơi vào hôn mê sâu, mấy bạn bè chúng tôi không ngớt nói về anh. Nào có giúp được gì, những mẩu ký ức vụn vặt ấy. Nhưng chúng tôi còn biết làm gì hơn cho San? Anh đã ở bên bờ sinh tử từ hai tuần nay, và việc anh dứt áo ra đi chỉ là giọt nước cuối cùng.

0 giờ 45 phút ngày 25 tháng 7 năm 2005. Vĩnh biệt Thái Ngọc San! Trước khi chính thức lên rừng tham gia cách mạng nghe nói San đã từng phải đi lao công đào binh do phản chiến. Ngay lần đầu gặp anh, tôi đã thấy hiện rõ nơi anh vẻ khắc khổ, có lẽ cả khắc kỷ. Bù lại, San được rất nhiều bạn bè thương mến. Anh dường như dung hợp được họ, những người bạn rất khác nhau và cũng khác anh. Hôm kia giờ, vợ chồng Nguyễn Hữu Ngô - hai trong số rất nhiều bạn thân của San - từ Huế vào Quảng Ngãi chơi với vợ chồng tôi, và những kỷ niệm về Thái Ngọc San lại được “hâm nóng”. Chúng tôi đã mất một người bạn hiền. Rất ít khi có dịp gặp San, nhưng tôi và một người bạn tôi - Ngô Thế Oanh - vẫn quí San. Quí cả thơ lẫn người, dù thơ San lãng đãng mà người San còn lãng đãng hơn. Vĩnh biệt anh, người bạn chung của rất nhiều anh chị em chúng tôi, người từ đô thị, kẻ ở Bắc vào, những người đã đi qua chiến tranh với ít nhiều mất mát. “Tôi vẫn nhớ bạn bè tôi - Dù mỗi thằng đi mỗi hướng - Và tôi vẫn tin rằng - Không có sự thù hằn nào giết được kỷ niệm” (Về những con đường khô cây). Người như thế, làm sao không có nhiều bạn bè cho được?


Quảng Ngãi 25/7/2005
T.T
(199/09-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vậy mà, đã hơn 50 năm, từ những năm tháng trẻ tuổi… Huế, ngày ấy đã xa. Đã là kỷ niệm. Đã mất đi nhưng vẫn không ngừng sinh nở. Như những câu thơ, một thời…

  • Việt Đức - Võ Quê - Phạm Xuân Phụng - Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Văn Vũ - Lê Phùng - Thùy Phương - Trần Băng Khuê

  • Trại sáng tác văn học với chủ đề “Vinh Xuân - Mùa biển gọi” do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND xã Vinh Xuân tổ chức, diễn ra trong thời gian từ ngày 3/5 đến ngày 10/5/2024, gồm 14 nhà văn, nhà thơ và 1 nhạc sĩ khách mời, đã cho ra đời 58 tác phẩm.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Ngày 18/9/1945, tại số 43 đường Trần Hưng Đạo, thành phố Thuận Hóa, Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên - tiền thân của Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế ngày nay được thành lập.

  • CHU SƠN

    Cuối năm 1963 tôi từ Hội An ra Huế để nhận lại tập thơ Quê Nhà và giấy phép xuất bản tại nha thông tin Trung Việt.

  • TRẦN DZẠ LỮ

    Gần một đời người làm thơ, sống giữa Sài Gòn với bao nhiêu thăng trầm dâu bể, có những ngày đói rách, lang thang. Bạn bè thì nhiều, có kẻ nhớ người quên sống khắp cùng đất nước, nơi đâu cũng để lại trong tôi ít nhiều kỷ niệm.

  • (SHO) Những người tôi gặp ở Huế trẻ hay già thường ngưỡng mộ anh là Thầy, một vị Thầy của môn âm nhạc, của tiếng, của lời, thân hay sơ mỗi người đều như chịu ít nhiều ân huệ của anh.  Nhưng thoạt mơ hồ tôi hiểu danh hiệu ấy khác hơn khi được ngồi với anh, bên bàn cơm, khi vui ca, khi đi dạo, khi nghe anh hát, khi thấy anh ngồi yên giữa bạn bè, anh hiện ra là vị Thầy bên trên âm nhạc... 

  • Mặc dù được các bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng GS-TS Trần Văn Khê đã vĩnh viễn ra đi vào lúc 2 giờ 55 phút ngày 24.6. Ông thọ 94 tuổi.

  • LTS: Ngày 17-7-1988 nhà thơ THANH TỊNH đã qua đời tại Hà Nội sau một cơn bệnh nặng, thọ 77 tuổi. Tưởng niệm nhà thơ, người anh người đồng nghiệp đáng kính của anh em văn nghệ sĩ Bình Trị Thiên, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của anh Hoàng Trung Thông và đoạn trích trong Điếu văn đọc tại lễ tưởng niệm nhà thơ tại trụ sở Hội văn nghệ B.T.T ngày 19-7-1988.

  • DƯƠNG THỊ NHỤN

    Tôi biết nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung là hàng xóm cũ của tôi những năm 90 của thế kỉ trước. Chị Dung là cháu ruột lại gần nhà ông ở phố Điện Biên Phủ nên rất thân thiết với ông. Tôi chỉ nghe chuyện và đọc truyện của nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung.

  • LGT: Thúc Tề và Trần Kim Xuyến là hai nhà báo có nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam. Một vấn đề đặt ra là: trong hai nhà báo liệt sĩ nói trên, ai mới đúng là “Nhà báo liệt sĩ đầu tiên của báo chí cách mạng Việt Nam?”. Nhiều ý kiến công nhận nhà báo Trần Kim Xuyến là nhà báo liệt sĩ đầu tiên, trong khi các tư liệu lại cho chúng ta thấy Thúc Tề mới đúng là nhà báo liệt sĩ đầu tiên.

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Trong số bạn bè thân tình của tôi, Ngô Minh rất “lạ”. Lạ đầu tiên là… nhỏ thó. Người thấp bé, tròn vo, tròn vo từ mấy chục năm ni luôn, chừ lại suốt ngày (e cả suốt đêm) ngồi máy tính viết bài.

  • Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như: Nhằm thẳng quân thù mà bắnThuyền trưởngRừng xưa xanh lá ;Kiếp chóNhững người rách việc; Chuyện kể năm 2000... đã qua đời vào lúc 6 giờ sáng ngày 18.12. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông bước vào sáng tác văn chương từ năm 20 tuổi và đã có một bút lực dồi dào để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị.

  • Nguyễn Hữu Đang sinh năm 1913 , quê  làng Trà Vi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia Hội Sinh viên thị xã Thái Bình thuộc Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và bị Pháp bắt vào cuối năm 1930 và bị giam hai tháng rưỡi tại thị xã Thái Bình.

  • Thi sĩ Kiên Giang là tác giả những bài thơ nổi tiếng Hoa trắng thôi cài lên áo tím, Tiền và lá, Ngủ bên chân mẹ… Ông cũng là soạn giả của những vở cải lương quen thuộc như Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Chi - Mỵ Nương và hàng trăm bản vọng cổ. Như người bạn văn tâm giao Sơn Nam và thi sĩ đàn anh Nguyễn Bính, Kiên Giang cả một đời phiêu bạt sống rày đây mai đó, cho đến khi trái tim đột ngột ngừng đập”...

  • Ở tuổi 89, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý - tác giả của ca khúc nổi tiếng "Dư âm" sống nghèo túng, bệnh tật và cô đơn trong căn nhà nhỏ giữa lòng Sài Gòn.

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Nhà văn Trần Áng Sơn sinh ngày 12/7/1937 tại Hải Phòng, lớn lên ở Huế, trưởng thành ở Sài Gòn, mất ngày: 18/5/ 2014.

  • QUANG VIÊN

    Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là vị tướng tài năng và đức độ. “Ông là một danh tướng, một nhà chính trị và nhà quân sự lỗi lạc” - Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thốt lên khi nhớ về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh như vậy. Trong cuộc sống tình cảm gia đình, cũng như ứng xử với văn hóa văn nghệ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng hết sức chí tình, có những việc làm rất đáng khâm phục. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về ông rất hay: “Sáng trong như ngọc một con người”…