DƯƠNG THỊ NHỤN
Tôi biết nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung là hàng xóm cũ của tôi những năm 90 của thế kỉ trước. Chị Dung là cháu ruột lại gần nhà ông ở phố Điện Biên Phủ nên rất thân thiết với ông. Tôi chỉ nghe chuyện và đọc truyện của nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung.
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn
Mãi sau này khi chuyển về làm biên tập văn xuôi tại Tạp chí Cửa Biển tôi mới được gặp ông thường xuyên. Con người ông bao năm vẫn ân cần, nhiệt tình cho đến khi ông không thể đến Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng được nữa vì căn bệnh ung thư phổi quái ác.
Căn nhà nhỏ ở gác 2 trong ngõ 10 phố Điện Biên Phủ luôn mở rộng cửa đón khách, bất kể khách là ai, làm gì và ở đâu, bởi nhà dù hẹp nhưng hai ông bà già lúc nào cũng muốn có tiếng người. Nhiều khi con ngõ nhỏ có hàng bánh đa quá chật chội vì đoàn khách từ xa đến là các cháu sinh viên. Họ ríu rít đứng ngồi rồi bày biện ăn uống ngay tại nhà ông. Đọc tác phẩm của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, họ muốn được ông kí tặng làm kỉ niệm. Ông có nhiều người bạn tri âm tri kỉ song không ít những người mới quen, và bất kể là ai cũng nhận được ở ông sự thân ái. Cuộc đời hơn tám mươi năm theo ông là có lãi, bởi qua bao nhọc nhằn, ông vẫn đứng vững và ngày càng khẳng định tên tuổi của mình trên văn đàn. Bạn văn và độc giả hâm mộ có khi lặn lội vài trăm cây số tới thăm ông, được gặp con người ông bằng da bằng thịt mới thỏa, và rồi họ lại vội vã ra đi. Những lần được khách tới thăm, ông luôn hể hả vui cười, có gói chè chai rượu ngon đều đem đãi khách. Ông đã cười tít mắt kể chuyện có lần được một người hâm mộ biếu nước mắm, trong đó có phần của dịch giả Dương Tường, ông đã nói với dịch giả là không đem nước mắm đi được, để lại. Thế là ông được hai phần. Không ai có thể quên nụ cười đôn hậu trên khuôn mặt khắc khổ của ông. Lối kể chuyện rủ rỉ hàng tiếng đồng hồ không làm khách mệt, khách chán, vì nỗi vất vả cơ cực, cả những nỗi đau tinh thần như được ông nén chặt lại, lấy ra dần dần, từ từ từng tí một.
Mấy anh em văn nghệ Hải Phòng hay rủ nhau đến nhà ông chơi. Ông gọi điện nhờ lấy hộ Tạp chí Cửa Biển. Đó chỉ là cái cớ để anh em bác cháu ngồi hàng giờ đồng hồ chuyện trên trời dưới biển, và rồi cuối cùng vẫn là chuyện văn chương. Mỗi khi có truyện được in, được dịch ông bảo muốn khoe với các em. Hôm mua được căn phòng bên cạnh, ông cười nói, đi lại và khoe đám cây cảnh xung quanh. Sim là giống dại, thế mà được thuần chủng khi về nhà ông, nở hoa to và đẹp hơn sim dại. Thiết mộc lan, mai chiếu thủy, vạn niên thanh, ngâu… đua nhau mọc. Ông không tỉa tót cầu kì mà để chúng phát triển tự nhiên. Để chúng được tự do, ông bảo thế.
Nhà rộng hơn, ông có thể ngắm được mặt trời, được đón ánh sáng chan hòa từ phía. Cuộc sống của ông bà không dư dả gì, thu nhập lương hưu hàng tháng hơn 3 triệu bạc phải co kéo rất khéo, nếu ốm đau hay có gì đột biến là phải nhờ đến con. Thỉnh thoảng ông bà lại có cuộc “Nam tiến” để thăm con cháu, cũng là để chữa bệnh. Ông bị khớp nặng, nhiều khi không đi lại được. Qua chị gái tôi biết ở Vĩnh Bảo có ông thầy thuốc chữa khớp giỏi, tôi nhờ lấy thuốc cho ông. Uống thuốc thấy dễ chịu, ông phấn khởi lắm, khi thì trực tiếp đạp xe đến Hội chơi, khi thì gọi điện chuyện trò rất lâu. Tôi nói bác cứ uống thoải mái, thuốc Nam ấy mà. Sau nhờ nhà thơ Nguyễn Đình Minh, cứ khi nào ông cần là anh Minh lại cho anh em mang đến. Song bệnh khớp đã mấy chục năm không khỏi được, nó cứ dai dẳng hành ông. Những lần vào thăm con gái về, ông bà cũng khỏe hơn được một thời gian rồi đâu vẫn hoàn đấy.
Bệnh khớp không làm ông gục ngã trên giường bệnh mà lá phổi mới là vấn đề. Những ngày cuối cùng ông đau lắm. Nhưng cơn đau vừa dứt, có ai đến thăm là ông cố gắng trò chuyện. Ông nói với chúng tôi, giờ mới biết ung thư là thế nào, tại mình viết về ung thư nhiều quá.
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Vùng đất địa linh nhân kiệt đã sinh ra một người con yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình tha thiết. Tham gia vào đoàn quân tiếp quản Thủ đô 1954, là phóng viên Báo Tiền Phong sau đó ông trở lại quê nhà và mãi gắn bó với mảnh đất đầu sóng ngọn gió. Cuộc đời ông không chỉ những người yêu văn chương biết, hiểu, thông cảm và chia sẻ. Nhưng bất chấp tất cả, ông vẫn đứng dậy và ngày càng được mọi người yêu mến. Điều đó được ông giãi bày trong văn học.
Văn chương là nghiệp, đã dính vào là không bỏ được, ông đã tâm sự như thế. Một số tác phẩm ra đời sau hơn 20 năm “tạm nghỉ” đã đánh dấu một Bùi Ngọc Tấn khác. Độc giả tìm đọc văn Bùi Ngọc Tấn ngày càng nhiều, vì nhân vật và tác giả không cần phải tương tác, mà gần như đồng nhất. Ông viết vì tình yêu con người, yêu cuộc đời và khát vọng sống trong con người bệnh tật đầy mình. Đọc Viết về bè bạn, tác phẩm tập hợp hai cuốn hồi kí Rừng xưa xanh lá và Một thời đã mất, Bùi Ngọc Tấn đã làm sống lại bức tranh văn học nghệ thuật một thời tưởng đã lùi vào dĩ vãng. Thời bao cấp với “khẩu phần tinh thần, khẩu phần vật chất đều được tiêu chuẩn hóa và phân phối… Một thời mà khi nhớ lại, bỗng thấy mình đã là những anh hùng, đã vượt qua quãng đời tưởng như bịa, không thể nào tin được”. Cuộc sống dù khó khăn đến mấy song vẫn qua đi, chỉ có tình người còn lại. Từng gương mặt bạn bè hiện lên với những góc khuất đầy khó khăn gian khổ nhưng vẫn ngời sáng nhân cách làm người. Và họ vẫn sống mãi, cho dù không ít người trong các trang sách đã an nghỉ cõi vĩnh hằng. Với tiểu thuyết Biển và chim bói cá lại là cách kể chuyện hiện thực mà ông một thời gắn bó. Đời sống của những anh chàng thủy thủ tại Liên hợp đánh cá Biển Đông vừa bi vừa hài, những nghịch lý cuộc sống được mặc nhiên thừa nhận khiến độc giả vừa thích thú vừa day dứt, và những ai đã sống vào thời ấy mừng, mừng vì đã chứng kiến và vẫn sống để được hồi tưởng lại. Vẫn là thói xấu của thời bao cấp, khi mà mọi thứ đều được tiêu chuẩn hóa và phân phối, từ cách làm đến cách nghĩ. Xin trích một đoạn: “Thuyền trưởng Mây nói với Cương: “Giá mày đi với tao, hai thằng bổ sung cho nhau. Một thằng kinh nghiệm, một thằng lí thuyết…”. Cương cười: “Lý thuyết học nhanh thôi. Nhưng kinh nghiệm của anh bạc đầu mới có được.” Cương tự trách mình đã có thói xấu ấy. Thói xấu do gần như cả đời làm thuyền phó dự bị, nên không tự tin, cứ dựa theo “thời tiết” của người đối thoại. Thói xấu nói lấy lòng người khác. Lý thuyết học nhanh thôi. Phải cày cuốc năm năm. Phải trực chiến nhà trường tuần này sang tuần khác. Phải ăn đói đến run chân run tay và khi đi qua cổng bảo vệ chớ có hát “cuộc đời vẫn đẹp sao tình yêu vẫn đẹp sao”, bởi vì rất nguy hiểm, nhà trường cho là mỉa mai châm chọc, có thể dẫn đến bị đuổi học. Phải có tài cho vào mồm cái bánh rán bà Miêng căng tin vừa vớt từ chảo ra rá, mỡ còn sôi xèo xèo mà bà ấy không biết. Hay lấy trộm của nhà bếp cái chân giò vừa luộc xong cũng nóng như vậy nhét vào cạp quần ung dung thong thả đi về ký túc xá như chẳng có gì phải vội vàng để mấy anh em cùng buồng lấy manh xơ lam xẻ ra chấm muối uống rượu thưởng thức chiến công”. Mỗi chi tiết được viết ra với giọng văn khi thản nhiên, khi dí dỏm để đằng sau đó là quan điểm sống của một thời hiện ra. Bùi Ngọc Tấn là thế, ông cứ thâm trầm hiền lành trong cuộc sống, để ngẫm ngợi cho những trang sách. Không ngạc nhiên khi các tác phẩm của ông được tái bản nhiều lần, cả trong và ngoài nước, và khi Biển và chim bói cá được giải thưởng Henri Quefenlec tại Liên hoan sách và biển diễn ra tại Pháp năm 2012.
Các tác phẩm của nhà văn Bùi Ngọc Tấn từ năm 1995 đến nay: Một thời để mất (1995), Những người rách việc (1996), Một ngày dài đằng đẵng (1999), Chuyện kể năm 2000 (2000), Rừng xưa xanh lá (2002), Biển và chim bói cá (2008), Viết về bè bạn (2014). Về giải thưởng Henri Quefenlec đã nói, còn của Hội Nhà văn Việt Nam, Báo Văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm… Và giải thưởng lớn nhất là của độc giả. Ông đã, đang và còn sống mãi.
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn đã ra đi vào lúc 6 giờ 15 phút ngày 18/12/2014 giữa ngày đông giá. Dòng người đưa tiễn ông dài tới nửa cây số trong không khí trang nghiêm và thành kính. Đám tang ông không kèn đồng, trống phách ồn ào, tiếng khóc than của con cháu dường như cũng được nén lại. Chỉ biết người rất đông, ngoài thân bằng cố hữu, còn cả những người hâm mộ ông từ khắp nơi. Nếu đọc được những chia sẻ của mọi người trên các trang ma- ng xã hội, chắc ông sẽ rất vui, vì ai cũng tiếc thương một con người. Đó là Bùi Ngọc Tấn.
D.T.N
(SH311/01-15)
Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?
NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)
VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.
VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.
PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...
“Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)
NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.
(Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.
Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.
VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...
VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.
HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.
PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.
NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.
NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.
HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.
VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.
NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.