Tưởng nhớ anh - Nhạc sỹ Trần Hoàn

14:29 18/06/2009
NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

Nhạc sĩ Trần Hoàn

Từ đó dến nay đã gần 30 năm, anh đã trải qua nhiều trọng trách, nhiều cương vị công tác khác nhau của Đảng, Nhà nước và đoàn thể. Nhưng đối với tôi, anh là một người anh, một mẫu người sốnghết mình vì công việc, một tấm gương sáng trong hoạt động nghệ thuật mà lớp trẻ chúng tôi noi theo.

Đầu tháng 11 năm 2003, nhân dự lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý ngành Văn hoá Thông tin tại khách sạn La Thành, tôi đã ghé thăm anh và chị. Lúc này, trông anh đã rất yếu, nhưng anh đã hỏi tôi rất nhiều về tình hình của Thừa Thiên Huế, về các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, về việc chuẩn bị Festival Huế 2004, anh đã khuyên tôi nên đi thăm Trung Quốc và hẹn “thăm xong Trung Quốc nhớ ghé về tau”. Ngày 20 tháng 11 năm 2003, chúng tôi nhận được tin anh bị đột quỵ và hôn mê sâu. Ngày 21 tháng 11, tôi điện ra cho chị Hồng – vợ anh – hỏi thăm tình hình, chị cho biết, anh vẫn hôn mê sâu, nhưng huyết áp và nhiệt độ có khả quan hơn. Và ngày 23 tháng 11, tôi điện hỏi thăm tiếp, thì nhận được tin, anh đã ra đi lúc 5 giờ. Chúng tôi đã bàng hoàng xúc động. Sau nhà thơ Tố Hữu, nhạc sỹ Nguyễn Văn Thương, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và hoạ sỹ Bửu Chỉ – nhạc sỹ Trần Hoàn, một cây đại thụ trong làng âm nhạc Việt nam đã ra đi.

Năm 1975, lúc này tôi được ở cùng với anh tại 17 Lê Lợi (bên cạnh Đài phát thanh), tôi đã chứng kiến sức làm việc hết sức miệt mài, bền bỉ, dẻo dai và hết sức sôi động của anh. Mỗi ngày, anh chỉ ngủ khoảng 3 – 4 tiếng đồng hồ, tự mình tập lái xe ô tô đi làm việc. Anh nói với tôi: “Tau chỉ lái xe đi ban đêm, ban ngày người ta cấm cán bộ lãnh đạo không được lái xe”. Có một hôm, khi về phòng, anh đã hỏi tôi: “Mi có biết tau tên chi không?” Tôi thưa: “Anh là Trần Hoàn!” Anh nheo mắt cười nói: “Tau tên là Nguyễn Tăng Hích”. Và anh đưa ra khoe với tôi một bản nhạc đã rất cũ, được một người bạn ở Huế lưu giữ và tặng lại cho anh, đó là bài Hồn nước in từ năm 1946 (NXB Tân Hoa ấn hành) và anh kể: “Khi tau đưa bài Hồn nước cho Nhà Xuất bản thấy đề tên Nguyễn Tăng Hích, họ chê và đề nghị phải kiếm một bút danh khác. Vì mê nhạc của Văn Cao, tau đã lấy hai chữ Trần Hoàn trong câu Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn... trong bài Thiên thai để làm bút danh”. Tôi cũng đã chứng kiến sự ra đời nhiều ca khúc phục vụ nhiệm vụ chính trị như ca khúc nói về Bình – Trị – Thiên hợp nhất, Câu hò trên Nông trường Thạch Hãn... anh tự nhận mình không phải là một nhạc sỹ chuyên nghiệp, nhưng sức sáng tạo, sự nhạy bén, rung động trước cuộc đời của anh thì khó có một nhạc sỹ chuyên nghiệp nào theo kịp. Không có một vùng đất nào, một địa danh nào, một sự kiện nào mà không có trong tác phẩm của anh, đúng như lời của GS-NSND-Nhạc sỹ Nguyễn Văn Thương đã đánh giá: “Xét cho cùng, trải qua bao nhiêu chức vụ khác nhau, vấn đề cốt lõi Trần Hoàn trước sau vẫn là cán bộ làm công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, do đó có điều kiện tiếp xúc với thực tiễn phong phú, từng vui với cái vui của dân, đau với cái đau của dân, được nhân dân tiếp sức cho những xúc cảm dồi dào từ cuộc sống và nhắc nhở anh phải viết một cái gì cho nhân dân”...

Trong thời gian tôi đang học Đại học lý luận âm nhạc, theo yêu cầu của chương trình, năm thứ ba sinh viên phải chọn một nhạc sỹ Việt Nam để làm niên luận và tôi đã chọn nhạc sỹ Trần Hoàn với tiêu đề “Bước đầu tìm hiểu cấu trúc âm nhạc trong ca khúc của nhạc sỹ Trần Hoàn”. Lúc này tôi mới có điều kiện tìm đọc và xem xét toàn bộ các tác phẩm của anh. Cho đến thời điểm năm 1997, anh đã có gần 1000 ca khúc. Toàn bộ ca khúc của anh như một cuốn nhật ký bằng âm thanh của cuộc đời, là một phần lịch sử mà thế hệ anh đã sống và cống hiến cho đất nước. Tôi rất thích 2 ca khúc: Sơn nữ ca Một mùa xuân nho nhỏ của hai thời kỳ cách nhau 50 năm như một sự khẳng định về tài năng của anh. Ca khúc Sơn nữ ca được anh viết vào năm 1948 lúc anh tròn 20 tuổi, một tình khúc được viết theo nhịp điệu tango nói về cái tôi hết sức riêng tư so với các tác phẩm sau này của anh với lời ca: Sơn nữ ơi, đời ta như cánh chim chiều phiêu bạt thời gian vun vút trời mây... và 50 năm sau, cánh chim ấy vẫn tung bay, nhưng đã đi vào chiều sâu trong một ca khúc nổi tiếng Một mùa xuân nho nhỏ (lời thơ Thanh Hải). Anh đã bộc bạch: “Tôi rất tâm đắc với lời thơ trong bài thơ cuối cùng của Thanh Hải, vì nó đã nói hộ tôi mục đích, ý nghĩa việc sáng tạo của mình với đất nước, quê hương, với nhân dân và cuộc đời”: Ta làm con chim hót, ta làm một nhành hoa, một nốt trầm xao xuyến, ta biến trong hoà ca...

Trong thời gian anh làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin, Phó Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật, không năm nào anh không về Huế. Bao giờ về Huế, anh cũng đến thăm tôi. Mặc dù tôi chỉ là cán bộ bình thường. Để cùng đi ăn cơm hến, bún hến, bàn luận về âm nhạc, nghe các sáng tác mới của anh. Và năm nào về Huế anh cũng có những tác phẩm để lại. Năm 2000, để chào mừng một thiên niên kỷ mới, anh đã sáng tác ca khúc Chào năm 2000, mà theo lời anh phải mang được chất sôi động, tươi trẻ. Năm 2002, trong dịp vào Huế, anh cũng đã có một sáng tác dành tặng cho Festival Huế 2002, với một giai điệu và tiết tấu sôi động, mang được hơi thở của thời đại với câu mở đầu: “Bay bay lên ơi Huế của ta ơi...”

Với bản tính, nhiệt huyết, sôi động vốn có của mình anh đã huy động học sinh, sinh viên của trường Trung học Văn hoá Nghệ thuật Thừa Thiên Huế vừa tập, vừa sửa chữa, vừa dàn dựng và tác phẩm hoàn thành sau hai ngày, kịp phát trên sóng phát thanh và truyền hình để phổ biến rộng rãi trước lễ hội Festival Huế 2002...

Hôm nay, ngày 23 tháng 11 anh đã vĩnh viễn ra đi, khép lại 75 năm chiến đấu, lao động, sáng tạo. Điều còn đọng lại đó là nhân cách và tác phẩm mà anh đã cống hiến cho cuộc đời. Lịch sử âm nhạc đương đại của Việt Nam khi nhắc đến Trần Hoàn, không thể không nhắc đến Sơn nữ ca, Lời người ra đi, Lời ru trên nương, Lời Bác dặn trước lúc đi xa, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm, Một mùa xuân nho nhỏ... Đối với bạn bè, anh em, đồng sự, đồng nghiệp, gia đình nhắc đến anh là nhắc đến nhân cách của một người cộng sản chân chính, miệng nói, tay làm. Tác phong giản dị, gần gũi, chan hoà, sôi động và hôm nay anh đã về cõi vĩnh hằng, để lại niềm thương tiếc cho mọi người.
Xin vĩnh biệt anh - một chiến sỹ, một nhạc sỹ tài hoa, một nhà văn hoá lớn!

Huế, 9 giờ 30 ngày 23/11/2003
N.Đ.S
(178/12-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vậy mà, đã hơn 50 năm, từ những năm tháng trẻ tuổi… Huế, ngày ấy đã xa. Đã là kỷ niệm. Đã mất đi nhưng vẫn không ngừng sinh nở. Như những câu thơ, một thời…

  • Việt Đức - Võ Quê - Phạm Xuân Phụng - Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Văn Vũ - Lê Phùng - Thùy Phương - Trần Băng Khuê

  • Trại sáng tác văn học với chủ đề “Vinh Xuân - Mùa biển gọi” do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND xã Vinh Xuân tổ chức, diễn ra trong thời gian từ ngày 3/5 đến ngày 10/5/2024, gồm 14 nhà văn, nhà thơ và 1 nhạc sĩ khách mời, đã cho ra đời 58 tác phẩm.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Ngày 18/9/1945, tại số 43 đường Trần Hưng Đạo, thành phố Thuận Hóa, Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên - tiền thân của Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế ngày nay được thành lập.

  • CHU SƠN

    Cuối năm 1963 tôi từ Hội An ra Huế để nhận lại tập thơ Quê Nhà và giấy phép xuất bản tại nha thông tin Trung Việt.

  • TRẦN DZẠ LỮ

    Gần một đời người làm thơ, sống giữa Sài Gòn với bao nhiêu thăng trầm dâu bể, có những ngày đói rách, lang thang. Bạn bè thì nhiều, có kẻ nhớ người quên sống khắp cùng đất nước, nơi đâu cũng để lại trong tôi ít nhiều kỷ niệm.

  • (SHO) Những người tôi gặp ở Huế trẻ hay già thường ngưỡng mộ anh là Thầy, một vị Thầy của môn âm nhạc, của tiếng, của lời, thân hay sơ mỗi người đều như chịu ít nhiều ân huệ của anh.  Nhưng thoạt mơ hồ tôi hiểu danh hiệu ấy khác hơn khi được ngồi với anh, bên bàn cơm, khi vui ca, khi đi dạo, khi nghe anh hát, khi thấy anh ngồi yên giữa bạn bè, anh hiện ra là vị Thầy bên trên âm nhạc... 

  • Mặc dù được các bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng GS-TS Trần Văn Khê đã vĩnh viễn ra đi vào lúc 2 giờ 55 phút ngày 24.6. Ông thọ 94 tuổi.

  • LTS: Ngày 17-7-1988 nhà thơ THANH TỊNH đã qua đời tại Hà Nội sau một cơn bệnh nặng, thọ 77 tuổi. Tưởng niệm nhà thơ, người anh người đồng nghiệp đáng kính của anh em văn nghệ sĩ Bình Trị Thiên, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của anh Hoàng Trung Thông và đoạn trích trong Điếu văn đọc tại lễ tưởng niệm nhà thơ tại trụ sở Hội văn nghệ B.T.T ngày 19-7-1988.

  • DƯƠNG THỊ NHỤN

    Tôi biết nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung là hàng xóm cũ của tôi những năm 90 của thế kỉ trước. Chị Dung là cháu ruột lại gần nhà ông ở phố Điện Biên Phủ nên rất thân thiết với ông. Tôi chỉ nghe chuyện và đọc truyện của nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung.

  • LGT: Thúc Tề và Trần Kim Xuyến là hai nhà báo có nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam. Một vấn đề đặt ra là: trong hai nhà báo liệt sĩ nói trên, ai mới đúng là “Nhà báo liệt sĩ đầu tiên của báo chí cách mạng Việt Nam?”. Nhiều ý kiến công nhận nhà báo Trần Kim Xuyến là nhà báo liệt sĩ đầu tiên, trong khi các tư liệu lại cho chúng ta thấy Thúc Tề mới đúng là nhà báo liệt sĩ đầu tiên.

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Trong số bạn bè thân tình của tôi, Ngô Minh rất “lạ”. Lạ đầu tiên là… nhỏ thó. Người thấp bé, tròn vo, tròn vo từ mấy chục năm ni luôn, chừ lại suốt ngày (e cả suốt đêm) ngồi máy tính viết bài.

  • Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như: Nhằm thẳng quân thù mà bắnThuyền trưởngRừng xưa xanh lá ;Kiếp chóNhững người rách việc; Chuyện kể năm 2000... đã qua đời vào lúc 6 giờ sáng ngày 18.12. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông bước vào sáng tác văn chương từ năm 20 tuổi và đã có một bút lực dồi dào để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị.

  • Nguyễn Hữu Đang sinh năm 1913 , quê  làng Trà Vi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia Hội Sinh viên thị xã Thái Bình thuộc Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và bị Pháp bắt vào cuối năm 1930 và bị giam hai tháng rưỡi tại thị xã Thái Bình.

  • Thi sĩ Kiên Giang là tác giả những bài thơ nổi tiếng Hoa trắng thôi cài lên áo tím, Tiền và lá, Ngủ bên chân mẹ… Ông cũng là soạn giả của những vở cải lương quen thuộc như Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Chi - Mỵ Nương và hàng trăm bản vọng cổ. Như người bạn văn tâm giao Sơn Nam và thi sĩ đàn anh Nguyễn Bính, Kiên Giang cả một đời phiêu bạt sống rày đây mai đó, cho đến khi trái tim đột ngột ngừng đập”...

  • Ở tuổi 89, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý - tác giả của ca khúc nổi tiếng "Dư âm" sống nghèo túng, bệnh tật và cô đơn trong căn nhà nhỏ giữa lòng Sài Gòn.

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Nhà văn Trần Áng Sơn sinh ngày 12/7/1937 tại Hải Phòng, lớn lên ở Huế, trưởng thành ở Sài Gòn, mất ngày: 18/5/ 2014.

  • QUANG VIÊN

    Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là vị tướng tài năng và đức độ. “Ông là một danh tướng, một nhà chính trị và nhà quân sự lỗi lạc” - Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thốt lên khi nhớ về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh như vậy. Trong cuộc sống tình cảm gia đình, cũng như ứng xử với văn hóa văn nghệ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng hết sức chí tình, có những việc làm rất đáng khâm phục. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về ông rất hay: “Sáng trong như ngọc một con người”…