Người dịch G.G. Marquez ấy là bạn tôi

16:10 27/05/2010
THANH THẢONgười dịch Marquez ấy chưa một lần gặp Marquez, dù anh đã từng sang tận xứ quê hương văn hào này.

Dịch giả Nguyễn Trung Đức - Ảnh: vietbao.vn

Nhưng chả sao. Nguyễn Trung Đức đã gặp Marquez ở phần tinh túy nhất, bùng nổ nhất, ấn tượng nhất: đó là những tác phẩm của ông. Có thể nói, Nguyễn Trung Đức trong hơn hai mươi năm dịch thuật của mình đã dịch gần như “trọn gói” G.G. Marquez, trừ một tác phẩm anh dự tính sẽ dịch, tiểu thuyết “Mùa thu của trưởng lão” nhưng do phải bận rộn vào hai “cây đa cây đề” khác là Octavio Paz và Luis Borges nên vẫn chưa có thời gian “sờ” tới. Nhớ hồi những năm 80, khi lần đầu tiên những tác phẩm của Marquez xuất hiện ở VN qua bản dịch của Nguyễn Trung Đức (riêng tiểu thuyết TRĂM NĂM CÔ ĐƠN có thêm phần đóng góp của hai dịch giả tiếng Tây Ban Nha là Quốc Dũng và Phạm Đình Lợi), những người viết văn và độc giả yêu văn học ở VN đã rung động, thậm chí, đã chao đảo.

Hồi đó, có nhà văn trẻ sau khi đọc TRĂM NĂM CÔ ĐƠN đã buột thốt: “Thì ra, còn những kiểu viết khác nữa.” Đúng vậy, không biết khi tác phẩm Marquez vào châu Âu, nó có gây “sốc” như thế chăng, chứ ở VN, Marquez thật sự đã làm đảo lộn, làm thay đổi cách nghĩ, cách viết của không ít nhà văn, nhất là những nhà văn trẻ. “Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” qua các bản dịch của Nguyễn Trung Đức đã khiến ta sờ thấy được, hình dung thấy được những vùng âm u trong thế giới con người, những “vùng cấm” mà trước Marquez, chưa có nhà văn nào sục vào một cách hệ thống như thế, thấu đáo như thế. khi quyết định dấn thân vào những “vùng cấm” ấy, Marquez đã chứng tỏ cho người đọc toàn thế giới biết ông là người can đảm như thế nào. Và khi “dấn thân” vào những tác phẩm của Marquez để chuyển ngữ ra tiếng Việt, Nguyễn Trung Đức tuy âm thầm không hề tuyên bố, nhưng đã chứng tỏ cho những người khát khao muốn thấy một sự thay đổi, một sự cách tân trong nền văn học VN, rằng người muốn cách tân, muốn đổi mới sẽ phải mang trên lưng cái thánh giá nặng tới cỡ nào.

Trong suốt 17 năm tôi chơi thân với Nguyễn Trung Đức, chiếc thành giá nặng trịch của nghề dịch thuật đã không rời lưng anh. Chơi với bạn bè, cùng “tiêu phí” thời gian cho bạn bè không một chút so đo, nhưng ngay sau đó, Nguyễn Trung Đức lại lặng lẽ ngồi vào bàn, và...dịch. Anh nói với tôi, cố gắng lắm mỗi ngày cũng chỉ dịch được từ hai đến ba trang. Vậy chỉ riêng tác phẩm Marquez, anh đã dịch và in đến mấy vạn trang rồi. Nếu ngày xưa người ta dạy phải học đức kiên nhẫn như Ngu Công dời núi, thì với tôi, chỉ cần học đức kiên nhẫn ấy từ những người làm công việc dịch thuật như Nguyễn Trung Đức, là đủ. Cái công việc kiên trì, tiệm tiến, nhiều khi như đơn điệu ấy có làm người dịch thấy chán nản hay mỏi mệt không? Nguyễn Trung Đức lắc đầu: “Tôi càng dịch càng thấy...sướng, càng thấy khỏe, ông ạ.”. Tôi tin. Bởi tôi cũng đã từng võ vẽ dịch dăm ba chục bài thơ, tôi biết nghề dịch khổ và sướng thế nào. Cái khổ thì khỏi nói nhưng cái sướng cũng vô cùng. Nhiều khi, chỉ dùng được một từ Việt tương ứng, một chữ có thần, là đủ sướng tới...mấy ngày. Mà với Nguyễn Trung Đức những từ câu có thần như thế không ít trong các bản dịch của anh, hỏi làm sao mà anh không sướng tới...mười mấy năm cho được (!)

Tôi nhớ dạo sau khi TRĂM NĂM CÔ ĐƠN lần đầu tiên được in bởi sự liên kết giữa Hội Văn Nghệ Quảng Nam-Đà Nẵng với NXB Văn Học, mà người “tổ chức” là nhà văn Thái Bá Lợi, chúng tôi đã hân hoan chào đón bản in thứ 100.000 của tác phẩm này. Lúc bấy giờ ta chưa vào kinh tế thị trường, khắp nơi là bao cấp, nhưng tôi và một người bạn nữa đã bắt đầu ngấp nghé làm “đầu nậu” in sách. nói cho đúng hơn là làm “trung gian” cho đầu nậu, bấy giờ là “đại gia” Mai Quốc Liên. Nghề làm “cò” của tôi tiến triển có vẻ tốt đẹp và một trong những địa chỉ tin cậy để tôi "cò" là bạn tôi, Nguyễn Trung Đức. Nhớ khi Đức hồ hởi báo tin với tôi là đã có trong tay TÌNH YÊU THỜI THỐ TẢ, tôi đã “còm-măng” anh ngay: “Ông dịch ngay đi, tụi tôi sẽ lo mọi chuyện.” Nói là làm, tôi về Qui Nhơn bàn với Từ Quốc Hoài để thi sĩ họ Từ này bán cái máy cát-sét vợ mới đi tu nghiệp bên Anh mua về. Hồi đó, cái cat-sét của Từ thi sĩ là “của độc” nên bán rất dễ và được khá tiền. Tôi xúi Từ Quốc Hoài “đầu tư” toàn bộ số tiền bán cát-sét ấy cho Nguyễn Trung Đức để có “lương ăn” mà dịch TÌNH YÊU THỜI THỖ TẢ, một quyết định đầu tư không mạo hiểm chút nào, vì chúng tôi tin ở văn tài của Marquez, và tin ở bản dịch của Nguyễn Trung Đức. Nghe tin loáng thoáng việc dịch tác phẩm này một vài “đại gia” đầu nậu đã đánh tiếng với Nguyễn Trung Đức để họ bao in trọn gói với nhuận bút ưu đãi, một số tiền khá lớn so với hồi đó, và cũng có thể so với bây giờ nữa. Nhưng Nguyễn Trung Đức đã lắc đầu: anh và tác phẩm Marquez đã “có chỗ có nơi” rồi. Và nơi đó là bạn bè. mà bạn bè luôn luôn là một số Một với Nguyễn Trung Đức.

Trong khi Nguyễn Trung Đức cắm cúi dịch thì tôi thực hiện những chuyến “ngoại giao con thoi” từ Nam ra Bắc. Nhiều “đại gia đầu nậu” biết chuyện đã gạ tôi, nhưng cuối cùng, tôi đã dừng bước ở Huế đô, với anh em văn nghệ Thừa Thiên - Huế (à quên, văn nghệ Bình- Trị - Thiên), với Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tô Nhuận Vỹ, những người không phải đầu nậu nhưng rất yêu Marquez và quyết tâm in tiểu thuyết của ông, trước là phục vụ văn học, sau là...kiếm thêm chút đỉnh tiền bạc cho Hội Văn nghệ. Mục đích ấy trong sáng quá, nên mới nghe tôi đã “ô-kê” liền. Vậy là làm hợp đồng, ký chú hẳn hoi, trong đó khoản nhuận bút cho người dịch là 7% giá bìa, và “tiền cò” cho nhóm chúng tôi là 2% giá bìa. Số lượng in thì tùy thực tế, nhưng hồi đó, tác phẩm Marquez được in ở VN không dưới 50.000 bản. Giá sách hồi ấy rẻ lắm, nhưng rẻ mấy thì rẻ, chúng tôi cũng chắc mẩm sẽ kiếm được cho Trung Đức một số tiền lớn, và kiếm cho mình số tiền đủ trả lại chiếc cát-sét cho vợ Từ Quốc Hoài, còn ra sẽ tha hồ...ăn nhậu.

Trong cơn hứng khởi, tôi đã nói với Nguyễn Trung Đức là khi xong việc, sẽ mua cho anh một lúc bốn chiếc ti-vi để bốn góc nhà, tha hồ xem (nhà Trung Đức thuở ấy chưa có ti-vi). Nghe thế đã rạo rực lên biết bao là tin tưởng vào ngày mai tươi đẹp. Nhưng hỡi ơi, ở đời đâu phải ai cứ muốn là được, dù ước muốn của ta chính đáng và lương thiện. Khi Nguyễn Trung Đức hoàn thành bản thảo, chúng tôi đã trao tân tay bên văn nghệ Huế, chỉ còn đợi in nữa là xong, thì xảy ra sự cố, chẳng biết mấy ông Văn nghệ Huế đô làm ăn thế nào, hay có ai “chọc ngoáy” vào, mà sách đang in phải bị dừng. Sau đó là những cuộc đấu khẩu, đấu văn bản liên tu bất tận giữa bên in sách với các cơ quan chủ quản. Dạo ấy cũng đã có người mách nước: có...hai trăm ngàn việc này xong ngay, nhưng các ông văn nghệ Huế dường như ngoài khả năng sáng tác dồi dào và cãi cọ rất...dai, thì túi các ông thường rỗng. Vì thế việc kiện cáo phải chuyển lên cấp cao hơn giải quyết, và ở cấp Bộ, Marquez từ chỗ là nhà văn đoạt giải Nobel lừng lẫy và TÌNH YÊU THỜI THỔ TẢ đã phải vào vòng luân hồi để quay về với kiếp trước của nó là kiếp...giấy, hay kiếp bột giấy. Cùng với sự nghiền nát ấy, những hy vọng những mơ ước của nhóm chúng tôi cũng đi tong. Trung Đức không có bốn cái ti-vi để bốn góc nhà, Từ Quốc Hoài không trả lại cho vợ được cái cát-sét, còn tôi thì may quá, chỉ mất đi một rổ trứng tưởng tượng. Sau vụ này, tôi đâm chán ngán với nghề “cò” sách, và nhân dịp được sang Liên Xô (cũ) học mấy tháng ở trường Góoc ki, tôi đã chuyển sang buôn áo phông phao và quần bò. Nhưng đợt đi thì lời, nhưng đợt về lại lỗ do nồi áp suất và bàn là “lưỡi cày 51” chợt hạ giá bất ngờ. Tôi vĩnh biệt thương trường từ đó. Bây giờ nghĩ lại, nghề “cò sách” chỉ tốn có...nước bọt, cũng là nghề dễ làm nhưng khó...ăn. Đành vậy.

Cùng với những thăng trầm của TÌNH YÊU THỜI THỔ TẢ, tình bạn của chúng tôi với Nguyễn Trung Đức lại đâm mặn mà thắm thiết hơn. Ở đời, lúc khó mới dễ tìm bạn, còn lúc vui thì chỉ là... thôi. Chúng tôi lại mỗi người mỗi việc, lâu lâu có dịp gặp nhau là vui hết mình, mặc xác cả thời thổ tả. Cứ cặm cụi vậy, sau TÌNH YÊU THỜI THỔ TẢ, Nguyễn Trung Đức đã dịch và in gần 20 đầu sách trong vòng hơn mười năm nay. Đó là một kết quả lớn lao, nếu ta biết những tác phẩm anh dịch đều thuộc loại “văn học thứ thiệt”, và đều khó dịch. Có lẽ ở Viện Văn học bây giờ, duy có Nguyễn Trung Đức là chỉ mới có tấm bằng cử nhân văn chương. Mọi người ở đó đều đã là giáo sư, tiến sĩ cả rồi. Nhưng về kết quả và sức làm việc, khả năng làm việc, thì đồng nghiệp, đồng cơ quan của anh thảy đều công nhận rằng Nguyễn Trung Đức không cần phải “kiếm thêm” cái bằng tiến sĩ làm gì. Bởi những bài viết nghiên cứu, giới thiệu tác giả, tác phẩm, khuynh hướng sáng tác mà anh đã viết đủ cho những lớp sau anh làm đến mấy cái bằng tiến sĩ. Có anh nhà thơ mau mồm nói: “Các anh là bạn bè nên cứ ca ngợi nhau!” Đúng thế, nhưng tôi còn biết ca ngợi ai, nếu trước nhất không biết ca ngợi bạn mình?

23.10.2000
T.T
(141/11-00)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.

  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.