Người dịch G.G. Marquez ấy là bạn tôi

16:10 27/05/2010
THANH THẢONgười dịch Marquez ấy chưa một lần gặp Marquez, dù anh đã từng sang tận xứ quê hương văn hào này.

Dịch giả Nguyễn Trung Đức - Ảnh: vietbao.vn

Nhưng chả sao. Nguyễn Trung Đức đã gặp Marquez ở phần tinh túy nhất, bùng nổ nhất, ấn tượng nhất: đó là những tác phẩm của ông. Có thể nói, Nguyễn Trung Đức trong hơn hai mươi năm dịch thuật của mình đã dịch gần như “trọn gói” G.G. Marquez, trừ một tác phẩm anh dự tính sẽ dịch, tiểu thuyết “Mùa thu của trưởng lão” nhưng do phải bận rộn vào hai “cây đa cây đề” khác là Octavio Paz và Luis Borges nên vẫn chưa có thời gian “sờ” tới. Nhớ hồi những năm 80, khi lần đầu tiên những tác phẩm của Marquez xuất hiện ở VN qua bản dịch của Nguyễn Trung Đức (riêng tiểu thuyết TRĂM NĂM CÔ ĐƠN có thêm phần đóng góp của hai dịch giả tiếng Tây Ban Nha là Quốc Dũng và Phạm Đình Lợi), những người viết văn và độc giả yêu văn học ở VN đã rung động, thậm chí, đã chao đảo.

Hồi đó, có nhà văn trẻ sau khi đọc TRĂM NĂM CÔ ĐƠN đã buột thốt: “Thì ra, còn những kiểu viết khác nữa.” Đúng vậy, không biết khi tác phẩm Marquez vào châu Âu, nó có gây “sốc” như thế chăng, chứ ở VN, Marquez thật sự đã làm đảo lộn, làm thay đổi cách nghĩ, cách viết của không ít nhà văn, nhất là những nhà văn trẻ. “Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” qua các bản dịch của Nguyễn Trung Đức đã khiến ta sờ thấy được, hình dung thấy được những vùng âm u trong thế giới con người, những “vùng cấm” mà trước Marquez, chưa có nhà văn nào sục vào một cách hệ thống như thế, thấu đáo như thế. khi quyết định dấn thân vào những “vùng cấm” ấy, Marquez đã chứng tỏ cho người đọc toàn thế giới biết ông là người can đảm như thế nào. Và khi “dấn thân” vào những tác phẩm của Marquez để chuyển ngữ ra tiếng Việt, Nguyễn Trung Đức tuy âm thầm không hề tuyên bố, nhưng đã chứng tỏ cho những người khát khao muốn thấy một sự thay đổi, một sự cách tân trong nền văn học VN, rằng người muốn cách tân, muốn đổi mới sẽ phải mang trên lưng cái thánh giá nặng tới cỡ nào.

Trong suốt 17 năm tôi chơi thân với Nguyễn Trung Đức, chiếc thành giá nặng trịch của nghề dịch thuật đã không rời lưng anh. Chơi với bạn bè, cùng “tiêu phí” thời gian cho bạn bè không một chút so đo, nhưng ngay sau đó, Nguyễn Trung Đức lại lặng lẽ ngồi vào bàn, và...dịch. Anh nói với tôi, cố gắng lắm mỗi ngày cũng chỉ dịch được từ hai đến ba trang. Vậy chỉ riêng tác phẩm Marquez, anh đã dịch và in đến mấy vạn trang rồi. Nếu ngày xưa người ta dạy phải học đức kiên nhẫn như Ngu Công dời núi, thì với tôi, chỉ cần học đức kiên nhẫn ấy từ những người làm công việc dịch thuật như Nguyễn Trung Đức, là đủ. Cái công việc kiên trì, tiệm tiến, nhiều khi như đơn điệu ấy có làm người dịch thấy chán nản hay mỏi mệt không? Nguyễn Trung Đức lắc đầu: “Tôi càng dịch càng thấy...sướng, càng thấy khỏe, ông ạ.”. Tôi tin. Bởi tôi cũng đã từng võ vẽ dịch dăm ba chục bài thơ, tôi biết nghề dịch khổ và sướng thế nào. Cái khổ thì khỏi nói nhưng cái sướng cũng vô cùng. Nhiều khi, chỉ dùng được một từ Việt tương ứng, một chữ có thần, là đủ sướng tới...mấy ngày. Mà với Nguyễn Trung Đức những từ câu có thần như thế không ít trong các bản dịch của anh, hỏi làm sao mà anh không sướng tới...mười mấy năm cho được (!)

Tôi nhớ dạo sau khi TRĂM NĂM CÔ ĐƠN lần đầu tiên được in bởi sự liên kết giữa Hội Văn Nghệ Quảng Nam-Đà Nẵng với NXB Văn Học, mà người “tổ chức” là nhà văn Thái Bá Lợi, chúng tôi đã hân hoan chào đón bản in thứ 100.000 của tác phẩm này. Lúc bấy giờ ta chưa vào kinh tế thị trường, khắp nơi là bao cấp, nhưng tôi và một người bạn nữa đã bắt đầu ngấp nghé làm “đầu nậu” in sách. nói cho đúng hơn là làm “trung gian” cho đầu nậu, bấy giờ là “đại gia” Mai Quốc Liên. Nghề làm “cò” của tôi tiến triển có vẻ tốt đẹp và một trong những địa chỉ tin cậy để tôi "cò" là bạn tôi, Nguyễn Trung Đức. Nhớ khi Đức hồ hởi báo tin với tôi là đã có trong tay TÌNH YÊU THỜI THỐ TẢ, tôi đã “còm-măng” anh ngay: “Ông dịch ngay đi, tụi tôi sẽ lo mọi chuyện.” Nói là làm, tôi về Qui Nhơn bàn với Từ Quốc Hoài để thi sĩ họ Từ này bán cái máy cát-sét vợ mới đi tu nghiệp bên Anh mua về. Hồi đó, cái cat-sét của Từ thi sĩ là “của độc” nên bán rất dễ và được khá tiền. Tôi xúi Từ Quốc Hoài “đầu tư” toàn bộ số tiền bán cát-sét ấy cho Nguyễn Trung Đức để có “lương ăn” mà dịch TÌNH YÊU THỜI THỖ TẢ, một quyết định đầu tư không mạo hiểm chút nào, vì chúng tôi tin ở văn tài của Marquez, và tin ở bản dịch của Nguyễn Trung Đức. Nghe tin loáng thoáng việc dịch tác phẩm này một vài “đại gia” đầu nậu đã đánh tiếng với Nguyễn Trung Đức để họ bao in trọn gói với nhuận bút ưu đãi, một số tiền khá lớn so với hồi đó, và cũng có thể so với bây giờ nữa. Nhưng Nguyễn Trung Đức đã lắc đầu: anh và tác phẩm Marquez đã “có chỗ có nơi” rồi. Và nơi đó là bạn bè. mà bạn bè luôn luôn là một số Một với Nguyễn Trung Đức.

Trong khi Nguyễn Trung Đức cắm cúi dịch thì tôi thực hiện những chuyến “ngoại giao con thoi” từ Nam ra Bắc. Nhiều “đại gia đầu nậu” biết chuyện đã gạ tôi, nhưng cuối cùng, tôi đã dừng bước ở Huế đô, với anh em văn nghệ Thừa Thiên - Huế (à quên, văn nghệ Bình- Trị - Thiên), với Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tô Nhuận Vỹ, những người không phải đầu nậu nhưng rất yêu Marquez và quyết tâm in tiểu thuyết của ông, trước là phục vụ văn học, sau là...kiếm thêm chút đỉnh tiền bạc cho Hội Văn nghệ. Mục đích ấy trong sáng quá, nên mới nghe tôi đã “ô-kê” liền. Vậy là làm hợp đồng, ký chú hẳn hoi, trong đó khoản nhuận bút cho người dịch là 7% giá bìa, và “tiền cò” cho nhóm chúng tôi là 2% giá bìa. Số lượng in thì tùy thực tế, nhưng hồi đó, tác phẩm Marquez được in ở VN không dưới 50.000 bản. Giá sách hồi ấy rẻ lắm, nhưng rẻ mấy thì rẻ, chúng tôi cũng chắc mẩm sẽ kiếm được cho Trung Đức một số tiền lớn, và kiếm cho mình số tiền đủ trả lại chiếc cát-sét cho vợ Từ Quốc Hoài, còn ra sẽ tha hồ...ăn nhậu.

Trong cơn hứng khởi, tôi đã nói với Nguyễn Trung Đức là khi xong việc, sẽ mua cho anh một lúc bốn chiếc ti-vi để bốn góc nhà, tha hồ xem (nhà Trung Đức thuở ấy chưa có ti-vi). Nghe thế đã rạo rực lên biết bao là tin tưởng vào ngày mai tươi đẹp. Nhưng hỡi ơi, ở đời đâu phải ai cứ muốn là được, dù ước muốn của ta chính đáng và lương thiện. Khi Nguyễn Trung Đức hoàn thành bản thảo, chúng tôi đã trao tân tay bên văn nghệ Huế, chỉ còn đợi in nữa là xong, thì xảy ra sự cố, chẳng biết mấy ông Văn nghệ Huế đô làm ăn thế nào, hay có ai “chọc ngoáy” vào, mà sách đang in phải bị dừng. Sau đó là những cuộc đấu khẩu, đấu văn bản liên tu bất tận giữa bên in sách với các cơ quan chủ quản. Dạo ấy cũng đã có người mách nước: có...hai trăm ngàn việc này xong ngay, nhưng các ông văn nghệ Huế dường như ngoài khả năng sáng tác dồi dào và cãi cọ rất...dai, thì túi các ông thường rỗng. Vì thế việc kiện cáo phải chuyển lên cấp cao hơn giải quyết, và ở cấp Bộ, Marquez từ chỗ là nhà văn đoạt giải Nobel lừng lẫy và TÌNH YÊU THỜI THỔ TẢ đã phải vào vòng luân hồi để quay về với kiếp trước của nó là kiếp...giấy, hay kiếp bột giấy. Cùng với sự nghiền nát ấy, những hy vọng những mơ ước của nhóm chúng tôi cũng đi tong. Trung Đức không có bốn cái ti-vi để bốn góc nhà, Từ Quốc Hoài không trả lại cho vợ được cái cát-sét, còn tôi thì may quá, chỉ mất đi một rổ trứng tưởng tượng. Sau vụ này, tôi đâm chán ngán với nghề “cò” sách, và nhân dịp được sang Liên Xô (cũ) học mấy tháng ở trường Góoc ki, tôi đã chuyển sang buôn áo phông phao và quần bò. Nhưng đợt đi thì lời, nhưng đợt về lại lỗ do nồi áp suất và bàn là “lưỡi cày 51” chợt hạ giá bất ngờ. Tôi vĩnh biệt thương trường từ đó. Bây giờ nghĩ lại, nghề “cò sách” chỉ tốn có...nước bọt, cũng là nghề dễ làm nhưng khó...ăn. Đành vậy.

Cùng với những thăng trầm của TÌNH YÊU THỜI THỔ TẢ, tình bạn của chúng tôi với Nguyễn Trung Đức lại đâm mặn mà thắm thiết hơn. Ở đời, lúc khó mới dễ tìm bạn, còn lúc vui thì chỉ là... thôi. Chúng tôi lại mỗi người mỗi việc, lâu lâu có dịp gặp nhau là vui hết mình, mặc xác cả thời thổ tả. Cứ cặm cụi vậy, sau TÌNH YÊU THỜI THỔ TẢ, Nguyễn Trung Đức đã dịch và in gần 20 đầu sách trong vòng hơn mười năm nay. Đó là một kết quả lớn lao, nếu ta biết những tác phẩm anh dịch đều thuộc loại “văn học thứ thiệt”, và đều khó dịch. Có lẽ ở Viện Văn học bây giờ, duy có Nguyễn Trung Đức là chỉ mới có tấm bằng cử nhân văn chương. Mọi người ở đó đều đã là giáo sư, tiến sĩ cả rồi. Nhưng về kết quả và sức làm việc, khả năng làm việc, thì đồng nghiệp, đồng cơ quan của anh thảy đều công nhận rằng Nguyễn Trung Đức không cần phải “kiếm thêm” cái bằng tiến sĩ làm gì. Bởi những bài viết nghiên cứu, giới thiệu tác giả, tác phẩm, khuynh hướng sáng tác mà anh đã viết đủ cho những lớp sau anh làm đến mấy cái bằng tiến sĩ. Có anh nhà thơ mau mồm nói: “Các anh là bạn bè nên cứ ca ngợi nhau!” Đúng thế, nhưng tôi còn biết ca ngợi ai, nếu trước nhất không biết ca ngợi bạn mình?

23.10.2000
T.T
(141/11-00)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ TRƯỜNGBước chân vào cái ngõ 45 Phan Bội Châu gặp mùi bánh trứng nướng thơm phức bao trùm, ngỡ ngàng: “Ông Trần Đình Hiến còn là một chủ lò bánh?”. Nhưng: - Không phải đâu. Khu nhà này hầu hết là mấy anh em ruột chúng tôi sinh sống. Lò bánh này của một chú, còn các người khác mỗi người một nghề. Các em tôi đều chịu khó. Vâng, bây giờ ai chẳng lấy chịu khó làm đầu...

  • Chính Bùi Hiển dẫn lời bạn ông nói rằng văn ông đi từ hướng ngoại đến hướng nội, hàm ý chín dần, mỗi ngày mỗi gần hơn với cốt lõi văn chương. Tôi không thấy như vậy.

  • NGÔ MINHSau hai cuộc hành trình vất vả hơn 2600 cây số đi về Đại hội Nhà văn khu vực miền Trung ở Nha Trang giữa tháng 3, rồi Đại hội Nhà Văn Việt Nam VII, bắt đầu từ 22/4 đến 10 giờ rưỡi đêm 27/4 tôi mới về tới nhà mình ở Huế, ngồi trước máy vi tính viết những dòng  buồn vui lẫn lộn.

  • THANH THẢO                           6 năm nay, kể từ cái đêm thơ nhạc kỷ niệm 40 năm đường 559 do nhà thơ Phạm Tiến Duật dẫn chương trình, trong đêm ấy Tế Hanh vì quá xúc động khi nhớ lại chuyến đi qua Trường Sơn của mình đầu năm 1974, ông đã bị xuất huyết não. 6 năm ấy, không thể có một cuộc phỏng vấn hay “gặp gỡ” nào được thực hiện với Tế Hanh, đơn giản vì ông không nói được. Tôi nghĩ, 6 năm nay, Tế Hanh chỉ còn trò chuyện với dòng sông của mình, dòng sông của đời mình, trong im lặng. Vì thế, những cuộc trò chuyện tôi kể sau đây đều thuộc về thời gian trước khi Tế Hanh lâm trọng bệnh.

  • LTS: Kể từ khi xuất hiện với bạn đọc qua bài bút ký đầu tiên có tên là Gọi nắng và chùm thơ Đời chị trên tạp chí Sông Hương lúc tuổi đời mới hai mươi, gần 10 năm qua, Văn Cầm Hải là một “hiện tượng văn học” của nhiều cuộc tranh luận vì phong cách lập ngôn mới lạ của mình. Bước vào mùa xuân mới, đúng vào ngày sinh nhật 20/1/2005 của mình, Văn Cầm Hải đã chính thức trở thành một trong những nhà văn trẻ nhất của Hội Nhà văn Việt Nam. Vốn là người kín tiếng đến mức “lập dị” nhưng nhân dịp xuân vui này, nhà văn Văn Cầm Hải đã “bật mí” nhiều điều, từ A đến Z trong cuộc sống của anh  với Sông Hương.

  • Sáng ngày 24-2-2005 tại trụ sở 26 Lê Lợi - Huế, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức lễ tưởng niệm nhà thơ Huy Cận. Nhiều cơ quan, ban ngành tỉnh, thành phố Huế và anh chị em văn nghệ sĩ đã tới dự. Sông Hương trân trọng giới thiệu “điếu văn” do nhà thơ Võ Quê đọc trong lễ tưởng niệm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Tưởng nhớ nhà thơ Lương An)Năm 1984, sau khi cùng anh chị em văn nghệ đón di hài nhà thơ Vĩnh Mai về Huế, nhà thơ Lương An - người đồng hương, người bạn thơ gần gũi với Vĩnh Mai đã viết bài "Đón anh về lại Huế thơ": Anh về lại Huế hôm nay / Huế đang mưa bỗng tạnh ngày nắng xuân...

  • HỒ SĨ HIỆPBa Kim, tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Thị Cam, sinh năm 1904, người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Ông viết văn rất sớm, nổi tiếng trên văn đàn từ thời "ngũ tứ vận động" (1919) và hoạt động văn học sôi nổi từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, tên tuổi ngang hàng với các nhà văn Mao Thuẫn, Tào Ngu và Lão Xá.

  • TRUNG SƠN(Nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất nhà thơ Phùng Quán)I. Hơn mười năm trước - mùa hè 1992, một cuộc “khai quật” ở Huế đã làm chấn động dư luận. Trong lúc đào hố móng xây dựng một căn nhà tại trụ sở Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Thừa Thiên Huế, người ta đã phát hiện một ngôi mộ tập thể gồm 17 bộ hài cốt, một số vũ khí, đạn và 3 kỷ vật còn ghi rõ tên hiệu, đơn vị Vệ quốc đoàn hồi năm 1946.

  • XUÂN TÙNG          Chòi trống im lìm, khách ngẩn ngơ          Bình khô, rượu cạn, điếu chăng tơ          Bao giờ điếu lại reo êm ái          Nhà rộn tiếng cười, ấm giọng thơ...

  • TRẦN THỊ LINH CHIXuất thân gia đình quan lại, học giỏi nhưng lại không chịu theo đuổi đến nơi đến chốn để khoa bảng đề tên, tiến bước công danh hầu nối nghiệp nhà, cha tôi bỏ dở chương trình tú tài sau khi đậu thành chung, làm một công chức kiếm sống qua ngày, dành hết cuộc đời cho văn học. Năng khiếu phê bình của ông đã biểu hiện ngay từ thời còn đi học.

  • PHAN TRUNG THÀNHTháng giêng năm 2003, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đêm thơ Nguyên Tiêu lần thứ I, theo sáng kiến thành lập “Ngày thơ Việt Nam” của Hội Nhà văn Việt Nam.

  • BẢO CƯỜNGLTS: Trên 40 năm ngâm thơ và đệm sáo cho thơ từ ra Bắc, từ trong nước ra nước ngoài, Bảo Cường hiện là một nghệ sỹ lão luyện trong nghề. Bài viết dưới đây, như chính tác giả nói: “Với lòng thiết tha mong mỏi bộ môn ngâm thơ và đệm sáo cho thơ ngày một phát triển, để mọi người và nhất là giới trẻ yêu thơ có cơ hội tìm hiểu đào sâu về hai bộ môn này.”

  • TRẦN NINH HỒLTS: Trần Ninh Hồ tên thật là Trần Hữu Hỷ. Lính Đông Bộ 1971 - 1976, 1977 - Trưởng ban Văn thơ báo Văn Nghệ. Nguyên chủ nhiệm Bảo tàng Văn học Việt …Bình quân cứ độ dăm năm, nhà thơ Trần Ninh Hồ lại có một "đợt" xuất bản thơ. Anh là cây bút sung sức trong suốt mấy thập niên vừa qua của nền thơ hiện đại Việt Nam, từ cuộc chiến tranh chống Mỹ cho suốt đến những ngày hôm nay...Nhà văn Võ Thị Xuân Hà đã có cuộc trao đổi với nhà thơ Trần Ninh Hồ trong một cách nhìn riêng biệt.

  • INRASARACác hội thảo bàn về nâng cao tính chuyên nghiệp trong sáng tạo văn học đã lôi kéo không ít nhà văn tham gia bàn cãi sôi nổi. Là tín hiệu đáng mừng: văn học Việt đang tự ý thức, tự phản tỉnh (self consciousness).

  • TRẦN ĐÌNH SỬThực tế nghèo nàn về thành tựu khoa học xã hội và nhân văn của chúng ta có thể tìm thấy nguyên nhân trong lối tư duy độc tôn một thời ở lĩnh vực học thuật. Cội nguồn sâu xa của lối tư duy ấy đang nằm trong di chứng của thời kì chiến tranh kéo dài ba mươi năm và cuộc đấu tranh ý thức hệ tàn khốc.

  • NGUYỄN THANH MỪNGKhái niệm nhà văn làm báo chắc không phải là chuyện lạ, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Cánh cửa mở ra cho nhà văn tung hoành trên “sân cỏ” báo chí không đơn thuần là chuyện “cơm áo không đùa...” mà vì nơi đây, nhà văn thể hiện mình ở nhiều góc độ khác nhau, hiểu từ hai phía, nhu cầu biểu lộ tâm trạng của họ và nhu cầu của đời sống đất nước và nhân dân đòi hỏi ở họ.

  • TRƯỜNG NHÂNLTS: Cũng như cuộc đời, văn nghệ có biết bao buồn vui. Nhà văn cũng là người, cho nên có lúc cũng dở khóc dở cười bởi những chuyện ngoài văn chương. “Vạch túi cho người xem... bia” là câu chuyện hậu kì để bạn đọc chia sẻ với chuyện bếp núc làng văn.

  • NGUYÊN ANMột nhà văn đồng hương cao niên hỏi tôi:- Sao bây giờ ta mới quen nhau nhỉ?Tôi chưa kịp trả lời, ông đã nói tiếp:- Thôi, từ nay nhé!

  • THANH THẢOLTS: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã về Huế. Có thể nói đấy là một sự kiện - một sự kiện trang nghiêm lặng lẽ.Là người có căn lành, cuộc trở về của ông dường như mãn vẹn. Ông đã trở về với nơi xuất phát, trở về với “ngôi nhà có ngọn lửa ấm”, trở về với tư cách một công dân thi sĩ.Sông Hương có nhã ý “cập nhật” ông từ đầu nhưng qua dò ướm, biết ông chưa muốn, Sông Hương đành để các báo bạn “post” trước.Mặc dầu “truy cập” sau nhưng Sông Hương với ông, với người Tổng Biên tập đầu tiên - Tổng Biên tập sáng lập hẳn còn nhiều duyên nợ, dài dài...