HÀ TÚC TRÍ
Ảnh: internet
Nàng đi từ Huế
Nai nao Mưn Hui (1)
Nàng đi từ Huế - Nai nao Mưn Hui
Nàng rời Thăng Long nhưng lại đi từ Huế
Nơi có dòng sông như Rồng thiêng quẫy nước
Đẹp oai linh như kiếm dựng trời xanh (2)
Hương sông mãi ngàn năm thơm ngát
Thương xót nàng đất lạ cũng thành quen
Tạ ơn Người sớm bỏ ngôi cao
Đem Phật pháp xây thanh bình đất nước
Làm sơn tăng mở lối Trúc Lâm Thiền
Đông A chiến công lẫy lừng lịch sử
Bạch Đằng - Vạn Kiếp - Hàm Tử - Chương Dương…
Xương còn trắng ngoài đồi cây ngọn cỏ
Đất sới lại thắm tươi màu máu đỏ
Rồng bay cao vàng rực nước sông Hồng
Đại Việt - Champa chung chiến thắng Nguyên Mông
Mừng hội ngộ: Thánh nhân - Anh hùng và ước mơ bình trị
Cuộc hôn phối diệu kỳ
Nên tình Nàng đẹp mãi ngàn sau
Nàng đi từ Huế - Nai nao Mưn Hui
Áo lụa má hồng thay giáp sắt
Nàng đi cho vẹn phấn hương nguyền
Theo chàng về bên kia đèo có ngàn mây phủ trắng
Vạn dặm đường thành bên nớ - bên ni
Núi sông thiêng không phai lời giao ước
Đất hai Châu nhẹ bước gót sen ngà
Một năm hương lửa chưa nồng
Hồn lệ ứa theo trùng dương sóng vỗ
Hóa sứ Pumpazài tang trắng ngàn bông
Nước Vĩnh Hảo môi hồng chưa thắm
Trăng đã buồn sương sau tháp Hời
Từ quê chồng trở lại kinh đô
Cánh buồm trắng giong sầu về cố thổ
Bên chân Phật như Thánh nữ PôtangYa
Huyền Trân – Bia Parames Vari Vương Phi (3)
Xuống mái tóc đời lúc tuổi còn hương
Trong lòng Huế là Quan Âm giáng thế
Hẹn chờ nhau những mùa tết Katê
Lời ca Ariya sáng ấm lửa hồng (4)
Xin đợi người về bên cửa tháp
Khúc vãi chài hát gọi mặt trời lên.
Ninh Thuận, Katê 2008
------------------------
(1) Nàng đi từ Huế Phiên âm lời trong một bài ca dân gian Chăm.
(2) Thơ Cao Bá Quát
(3) Tôn hiệu Chăm của Huyền Trân
(4) Ariya: Dân ca Chăm
(SDB8/3-13)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi