Nói đến văn hóa Quảng Bình, không thể không nhắc đến hò khoan Lệ Thủy. Với lối hát dung dị, mộc mạc và gần gũi, làn điệu dân ca này là món ăn tinh thần bao đời nay của người dân nơi đây. Những ngày qua, hò khoan Lệ Thủy đã vang lên giữa Thủ đô, tạo điểm nhấn trong chương trình “Quảng Bình trong lòng Hà Nội”.
Hò khoan Lệ Thủy vang lên tại Hà Nội
Gắn với đời sống lao động sản xuất
Hò khoan đã thấm vào máu thịt bao đời của người dân Lệ Thủy nói riêng và Quảng Bình nói chung. Ra đời từ cuộc sống lao động sản xuất, những điệu hò có mặt khắp nơi, như chèo thuyền, giã gạo, cày bừa, cấy lúa, kéo gỗ, nện đất, cất nhà... đến tình yêu đôi lứa. Trong chiến tranh, điệu hò được sử dụng như một cách ra hiệu lệnh của quân du kích... Lần thứ 2 ra biểu diễn tại Hà Nội, nghệ nhân Trần Đình Thám cũng như các thành viên CLB Hò khoan Lệ Thủy đã “gửi hết tình yêu quê hương vào câu hát để thấy được Quảng Bình trong lòng Hà Nội thật rõ nét, thân thương”.
Nghệ nhân Trần Đình Thám cho biết: Hò khoan gồm có 9 mái (làn điệu) và hiện đã được dựng lại đầy đủ: Mái ba, mái nện, mái chè, mái nhì, mái xắp, mái duỗi, hò khơi, hò nậu xăm, hò lỉa trâu. Qua hành trình hàng trăm năm phát triển, từ những làn điệu cơ bản, các nghệ nhân dân gian tiếp tục sáng tạo thêm các lối hò như: Giao duyên, nhân nghĩa, điển tích, ghễnh ghẹo, bồn ba… Điệu hò rất phong phú, mỗi xã ở Lệ Thủy có cách hò và sự luyến láy khác nhau. Cũng như nhiều loại hình diễn xướng khác, hò khoan dần được nâng lên thành hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng có tính sân khấu, hoặc thi trong lúc nông nhàn. Một điều độc đáo nữa ở hò khoan Lệ Thủy, ấy là chỉ trong trường hợp biểu diễn hay thi mới dùng đến các loại nhạc cụ như nhị, sáo, trống, còn thông thường, nhạc đệm là công cụ lao động như chày giã gạo, sanh, gậy, mâm đồng, chén trà, hay tiếng vỗ tay lấy đà bắt nhịp, tạo ra âm thanh mộc mạc, gần gũi, thân quen.
Đã sưu tầm hơn 2.000 câu hò khoan Lệ Thủy, nhà nghiên cứu Đặng Ngọc Tuân cho hay, vui hò hát đã đành, đằng này khi buồn hay lúc lao động mệt nhọc, người dân cũng hò. Điều đó làm nên cái da diết, cháy bỏng, day dứt và cả sức sống của những điệu hò khoan. Trong hàng nghìn câu hò cổ mà các nhà nghiên cứu sưu tầm được, có thể thấy nội dung đề cập rất phong phú, nói về nhân tình, thế thái, sự đời, cho đến tình cảm, giao duyên, thậm chí là một chút trách cứ, than phiền. Nhưng bao trùm vẫn là tình yêu đất nước, quê hương, tình yêu lứa đôi sâu nặng, nhắc nhủ con người sống giữ trọn chữ hiếu, trung, nhân, nghĩa.
Lời ca chứa đựng sự răn dạy, ý nghĩa nhân văn, tình cảm, lối hát dung dị, thân thương, hò khoan Lệ Thủy đã trở thành nguồn sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ người dân nơi đây. Với những giá trị văn hóa dân gian đặc sắc, UBND tỉnh Quảng Bình đang tiến hành lập hồ sơ đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa hò khoan Lệ Thủy vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Đưa hò khoan vào trường học
Từ ngày 25 - 27.3, không gian văn hóa dân ca hò khoan Lệ Thủy đã được tái hiện tại nhà Bát Giác, phía sau tượng đài Lý Thái Tổ, Hà Nội. Điệu hò khoan cũng góp mặt trong phần mở màn chương trình nghệ thuật đỉnh cao Quảng Bình trong câu hát tối 26 - 27.3 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. |
Trước sự thay đổi của đời sống xã hội, thế hệ trẻ ngày nay không còn thích nghe hò khoan, thậm chí có thời gian, điệu hò khoan bị lãng quên và mai một. Tuy nhiên, tỉnh Quảng Bình và huyện Lệ Thủy đang nỗ lực bảo tồn làn điệu dân ca truyền thống đặc sắc này. Theo nghệ nhân Trần Đình Thám, hò Lệ Thủy đã được đưa vào chương trình giảng dạy từ huyện tới xã, từ bậc mầm non đến trung học. Khi đến truyền dạy, các nghệ nhân đều nhận thấy các cháu nhỏ rất hào hứng với điệu hò quê hương. Bên cạnh đó, hàng năm huyện cũng tổ chức những cuộc thi, hội diễn giữa các trường, các cấp học về hò khoan Lệ Thủy. “Việc đưa hò khoan Lệ Thủy vào chương trình học như vậy là niềm vui, sự động viên rất lớn với nghệ nhân chúng tôi, bởi đây sẽ là nền tảng để giữ gìn làn điệu dân gian của quê hương” - nghệ nhân Trần Đình Thám nói.
Giữ gìn làn điệu dân gian của quê hương, các nghệ nhân cũng lập câu lạc bộ, cùng nhau luyện tập, dựng lại và truyền dạy những giai điệu, ca từ hò cổ sâu đậm cho thế hệ trẻ; biểu diễn giới thiệu tới công chúng. Những câu lạc bộ tại Lệ Thủy đa phần là tự phát, hoạt động dựa trên kinh phí đóng góp xuất phát từ tình yêu với hò khoan, sự nhiệt tình và tâm huyết với dân ca quê hương Lệ Thủy.
Sinh ra trong gia đình có 4 đời hát hò khoan Lệ Thủy, nghệ nhân Nguyễn Thị Lý (64 tuổi) đã thành lập được 5 CLB, trong đó làm Chủ nhiệm CLB Hò khoan Lệ Thủy, với 23 thành viên, trong đó có 7 nghệ nhân mới được nhà nước công nhận, 3 nghệ nhân cấp quốc gia và 4 nghệ nhân cấp tỉnh, đều là những người yêu câu hò và tâm huyết với việc truyền dạy, gìn giữ dân ca cổ truyền này. Nghệ nhân Nguyễn Thị Lý hy vọng: “Tâm huyết, tình yêu hò khoan của chúng tôi sẽ giúp gìn giữ bản sắc quê hương và một ngày không xa điệu hò cũng được công nhận là di sản văn hóa của quốc gia và nhân loại. Từ đó, hò khoan Lệ Thủy được giới thiệu nhiều hơn tới khách du lịch trong nước và nước ngoài đề góp phần quảng bá về nét đẹp văn hóa của Quảng Bình và huyện Lệ Thủy”. Tuy nhiên, bà Lý cũng mong muốn các CLB Hò khoan Lệ Thủy được quan tâm, hỗ trợ tạo nguồn thu để bảo đảm đời sống cho nghệ nhân, giúp họ yên tâm truyền dạy và bảo tồn di sản văn hóa quê hương.
Nguồn: Hồng Nhung - ĐBND
NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.
VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.
MẶC HY Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."
MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.
NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.
MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.
NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.
NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.
VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.
PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.
LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.
Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.
DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...
NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.
NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...
NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006
HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!
NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).