Lên ngàn tìm tiếng ríu ran

14:21 16/09/2022

HẢI HẠC PHAN
     Bút ký dự thi

Con chim xanh tìm hạt dẻ sa cánh chợt khép mỏ vút bay khi nghe tiếng động cơ xe di chuyển về phía Tây dãy Trường Sơn.

Ảnh: internet

A Lưới! A Lưới! Tiếng ríu ran từ trong tàng cây của côn trùng trở mùa sinh sôi, tiếng cười giòn tươi như chùm hoa nắc nẻ của những bé em người Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu gọi tên một vùng đất tôi yêu. Tiếng ríu ran cuộn lòng người trĩu âu lo phố thị chợt nhẹ nhàng trong suốt như dòng thác Anor tuôn chảy ra suối về làng Việt Tiến xã Hồng Kim. Nước mát ngầm nuôi dưỡng những bông hoa sim tháng tư tím phơn phớt hồng, cao mảnh nép vào nhà sàn bung nụ chờ ngày ra quả, lên men dẫn lối anh chị dưới xuôi lên.

Buổi sáng nào sương mù cũng về như lời giao hẹn của miền sơn cước với con người từ ngàn xưa. Tâm, cô em làm giảng viên đi từ Đà Nẵng cùng chồng rủ nhau cưỡi con xe airblade đời đầu trèo gần hai mươi kilomet lên đèo A Co. Từ con đường Trường Sơn quanh co, thỉnh thoảng những bầy gà rừng loi choi chạy loăng quăng bên sườn núi là hoạt cảnh bất ngờ khiến Tâm “ồ” lên thích thú. Đứng đợi sương ở đây khi không khí trên cao tan loãng, đám mây tràn về sà nhanh chớp mắt sương đã quấn quanh tạo thành rừng sương, dòng sông sương mờ ảo. Ánh nắng núi đam mê gọi tôi suốt bao ngày trong bốn bức tường thành thị, bên cửa sổ hẻm phố sực nức mùi rượu vang khiến tôi thôi bất an tìm nhiều hơn những gì đang có.

Buổi chiều từ trên ngọn đồi Cội Nguồn nhìn ra bản làng trù mật ở thị trấn A Lưới, thị trấn nhỏ chỉ bằng phần mười thị trấn Măng Đen của cao nguyên Kon Tum song huyên náo hơn. Chiều chiều những sản vật núi bày bán như: thơm, dưa gang, chuối, mít, khoai lang mật… từng mớ từng mớ thơm nức. Các sơn nữ ngồi trước đường mòn Hồ Chí Minh đón khách vãng lai ghé A Lưới dừng mua với nụ cười trong veo, tuyệt nhiên không có lời mời mọc kì nèo. Những người bán hàng lại ríu ran khi khách rời đi với những chuyện được mùa mất mùa, con bò ai đi lạc, ong vò vẽ làm tổ trên ngọn mít sau nhà.

Hoàng hôn buông xuống màu gạch mới mờ nhờ sương mỏng dần dãy núi trước đậm, sau nhạt, những rặng cao hơn chìm khuất sau áo choàng mây trắng. Chân đồi chỉ mới ken kín hoa sim vài ba năm đã sớm thành hoài niệm, thành nỗi xuyến xao lưu luyến cho những ai từng đặt chân tới. Chiều ở trong núi mà bâng khuâng bước lên bước xuống nhớ núi thêm trăm ngàn lần. Chân đồi Cội Nguồn trải đầy hoa sim rừng tạo tác nên một không gian cho những đôi trẻ mắt nhung hẹn hò. Thản nhiên một cây dương xỉ cao quá gối hay một bầy chim sáo lóc chóc chia sâu dù đã sang mùa hóa bướm sặc sỡ trăm màu, bảo sao chẳng nhớ da diết thiết tha. Thi thoảng tôi nhận ra trong rừng, một người trưởng thành đầy âu lo trong tôi rã như lá mục, chỉ còn đứa trẻ với ánh nắng vàng rực sơ sinh, một tiên nữ nép mình trong lớp áo thơm mùi nhựa thông, thơm như một lần tôi đã xuất hiện trong buổi hẹn đầu tiên và đầy lúng túng. Những gì con người tạo ra đôi khi nhàm chán bởi chúng thường giống nhau, chỉ có thiên nhiên là luôn trao cho ta những bất ngờ vô tận với những biến đổi không ngừng.

Chiều bâng khuâng trước những tấm váy dzèng đơn sơ màu cây cỏ. Các chị các em lướt qua con dốc lòa xòa cây lá, váy lướt đến đâu cỏ hoa bừng lên lung linh tới đó. Tấm vải được nhuộm từ hương cỏ, hương cây của núi rừng đại ngàn, từ thế giới tâm hồn hiền hậu, chịu khó chịu thương của con người và sự phóng khoáng của cảnh sắc miền sơn cước. Đen, đỏ, xanh, vàng và tím cộng với sự chấm phá của những hạt cườm trắng trên mỗi bộ trang phục làm toát lên vẻ hài hòa tuyệt đẹp của ngũ sắc. Xưa kia dệt dzèng gắn bó với rừng xanh, người Tà Ôi dùng vỏ cây Clang là loại cây lớn để làm áo choàng che thân. Loại áo quần này đến nay A Lưới chỉ còn giữ được hai bộ. Sự ra đời của dzèng cũng ảo mờ như lịch sử ra đời của những huyền tích về Giàng Đất, Giàng Nông… mỗi người một cách lý giải riêng. Chỉ biết rằng chiếc váy giờ đây đã thay đổi nhiều. Truyền thuyết không quên khoác cho loại vải này một màu sắc thần kỳ, rằng: dệt dzèng sinh ra trên miền đất biên viễn mùa hè nóng nực, oi ả, mùa đông lạnh giá căm căm. Truyền nghề cho dương gian chính là người đàn bà tên Cănpơnu. Chuyện kể sau khi học ở trên trời hàng trăm nghề, khi về lại trần gian, bà đã dạy cho các thiếu nữ nghề dệt để họ có áo, váy và khố nhằm chống lại giá rét của mùa đông và sương núi. Dệt dzèng bắt đầu cuộc đời lưu lạc ra Phong Điền, Thừa Thiên Huế, ra Đắc Rông, Quảng Trị theo những quãng quên lãng, tùy táng và thất lạc. Thế mà giờ đây vui thay không chỉ trong lễ hội mới được nhìn thấy bà con mặc dzèng. Dzèng còn được dùng may những con thú bông, may giày, móc khóa rồi đi ra những sân khấu lớn. Mỗi tầng váy lướt qua là ngàn cây bông sợi, cây râu, rễ cây nao kun, cây kha krung, củ nâu, dây đằng đằng, vỏ xoắn ốc tươi trầm màu bờ suối, bìa rừng ẩn hiện. Thời gian luôn hà khắc với những gì không đủ sức chống chọi lại nó. Thời gian cũng công bằng gạn lọc vạn vật sinh tồn được trong thế giới luôn luôn biến chuyển này. Vẻ đẹp không lấp lánh, điệu đà, không kiêu kỳ hay xa hoa hồn người làm ra nó như thế nào, váy làm từ vải dzèng như vậy… giản dị mà vẫn lộng lẫy, đến ngỡ ngàng.

Màu xanh của lá thông đan vào bầu trời xanh, cây tiếp cây, rừng tiếp rừng, tít tắp, vời vợi như những nhớ thương của tôi với phố núi. Tôi nhớ những ngày xưa, bài hát tình ca A Lưới nhạc sĩ nào viết cho đại ngàn đã ngợi ca “không nơi đâu đẹp như quê mình”. Tôi vu vơ hát, phát âm từ A Lưới cho đúng cao độ rồi bật cười khi thức giấc được hồn nhiên trong chính trái tim ngoài ba mươi biết suy ngợi dài ngắn trong đời. Từ trong tâm khảm tôi màu xanh của rừng dường như cũng có tiếng ríu ran nên rừng luôn vẫy gọi đến, đi, trở về, trở lại khi muốn xoa dịu cõi lòng cõi đời nhiều xao động.

*

Tôi thấy nhớ tiếng Âng Kro của nghệ nhân Quỳnh Hoàng chế tác, được anh nghệ nhân trẻ Rà Giờ thổi năm nào. Nhớ lời đong đưa: “Em ơi em/ Anh làm chiếc Âng Kro/ Để đàn nói giùm anh/ những điều không nói được”. Anh Rà Giờ thổi bài này bên suối như thể đợi người yêu. Suối rì rầm, suối gọi bàn chân xinh, bàn chân nứt nẻ, bàn chân lấm đất hãy đặt xuống đây ngâm cho mát lạnh tan tận mọi mệt nhọc. Lời ca da diết trong điệu Kà Lơi ngân nga là tình cảm của chàng trai mượn chiếc đàn thổi cho người yêu nghe từ loại nhạc cụ truyền thống mà bà con Tà Ôi, Pa Cô gọi là Nkoaiq - Nkrao, đồng bào Cơ Tu ở A Lưới quen gọi là Âng Kro, còn người Kinh gọi là đàn môi.

Những cây đàn làm bằng tre, một số ít được làm bằng đồng có hình dáng tựa như chiếc lá tre mỏng có cuống. Với người chẳng quen biết, nhờ tiếng đàn làm quen, nhờ tiếng đàn gọi người thương. Đàn trông nhỏ bé, đơn sơ nhưng cần bàn tay khéo, tỉ mỉ và công phu. Để tìm được nguyên liệu làm đàn, lời ca Kà Lơi nói lên công đoạn ban đầu không hề dễ. “Anh lên trên núi cao/ Chọn cây tre già nhất/ Chọn cây tre tốt nhất/ Lấy đoạn tre tốt nhất”. Anh Rà Giờ đứng dưới nắng ngậm hờ Âng Kro vào môi rồi dùng hơi từ vòm họng làm hộp cộng hưởng kết hợp động tác của ngón trỏ búng vào cái đỉnh tam giác được uốn cong ra ngoài. Tay trái anh giữ gốc đàn chính là phần trông như một cuống lá. Cao độ không phải lúc nào cũng chuẩn xác bởi ngón trỏ búng làm rung lưỡi gà lúc mạnh khi nhẹ, vòm miệng làm hộp cộng hưởng lại chi phối bằng việc thay đổi khẩu hình do đó âm thanh phát ra bộc bạch tiếng lòng tình tứ, giản dị mà hoang dã. Tiếng suối gần tiếng thác xa, tiếng Âng Kro làm xao xuyến bước chân người con gái xa nhà.

Xa vắng lắm rồi ký ức còn trong các già làng, trong một lần tìm cho kỳ được nghệ nhân cuối cùng để ghi hình phim tài liệu “Giữ lấy âm vang Nkoaiq-Nkrao-Âng Kro”. Âm vang vẫn chưa thực sự trở lại trong đời sống, mà chỉ ở lại trong trí nhớ một số người hay “cắc cớ” hoài niệm. Ở thác Toom xã Hồng Hạ đã phục dựng tục đi sim, những lễ hội cúng Giàng xứ, Aza, dâng dzèng đã trẩy trở lại, áo dzèng đã ra chợ, đến trường, vào công sở, lên nương… Điệu hát Kà Lơi, Cha Chấp, điệu múa Tân tung za zá, chiêng, trống, tù và đã ông oang gần xa. Những cây đàn Âng Kro giờ đây không chỉ nhỏ bé về vật chất mà còn lạ lẫm với cả những bạn trẻ của A Lưới trước chính bản sắc của đồng bào mình. Đàn gọi bạn vuốt từ thân tre, nhỏ như một chiếc lá rủ rỉ bốn mùa cùng bao thề hẹn, bao cuộc tình, bao tuổi trẻ xuân xanh của bao người miền ngược lẫn miền xuôi lên đây không về mà ở lại. Tôi thiên di theo vi vút của những con dốc của làng Việt Tiến muốn nghe hết tiếng đàn môi sau bờ rào của anh chàng Pa Cô nọ có chạm đến lòng lành của cô gái Hồ Thị Nhuận đang thả chân xuống bờ suối A Tép. Tiếng đàn mai một như cuộc tình đầu nào cũng dễ lìa xa. Những lời tình “Làm chiếc đàn khéo nhất/ Lựa những lời hay nhất/ Để nói với em những lời chân thật/ Thương em nhiều nhất/ Em ơi, em có biết không”? Tôi cứ nghe ríu ran biết mấy với Âng Kro và nghĩ có ngày chiếc đàn tình bé nhỏ sẽ đóng khung trong bảo tàng, trong ký ức người già khuất núi mà thôi.

*

Tôi trèo lên đỉnh đồi với con đường chẳng khác nào dốc thác đến với ruộng lúa Ra Dư - loại lúa chỉ dành cho chàng rể với câu chuyện cổ của đồng bào Pa Cô về chàng Pút. Tôi chinh phục những bậc đá đồi cheo leo mặc các đấng nam nhi đi rừng chuyên nghiệp liên tục khuyên hãy quay lại. Tôi ngồi bên con suối nghe chuyện tuổi thơ của Kiêm, Phó Chủ tịch xã Hương Nguyên gắn bó với rừng, với con cua, con cá… Ruộng Ra Dư trồng trên đất keo tràm mới khai thác trông mây mẩy hơn trên rẫy, chim chóc kéo về ríu ran cả bầu trời tìm hạt. Buổi trưa một cậu nhóc bắt được giỏ cá suối lấp ló ngoài lán trại, tôi giả đò xin thì cậu chỉ biết “Dạ… dạ” rồi tôi những tưởng cậu nhóc tiếc công lần mò cả buổi sẽ không cho. Đến khi tôi ăn trưa gần xong cậu mang nguyên giỏ cá tới, nói gì đó bằng tiếng Cơ Tu, đại để: Anh chị thích con nào thì lấy đi. Đôi khi, trong một ngày trời oi chớm hạ, sự thểu thảo của ai đó khiến lòng ta mát mẻ như được nhảy ùm xuống thác. Một câu nói mà thương lạ. Nhưng tất nhiên chúng tôi từ chối nhận không. Lần trở lại A Lưới này cần khoảng không gian khi vừa qua những lỡ dở, những quyến luyến trong đời.

Hôm nay con chim Khuyên thảng nghe tiếng người cũng ríu ran gọi nhau bay tới cánh đồng màu cam của hoa sâm Bố Chính mùa hè. Tôi tìm những người già nhất những làng Tù Mú Tà Rá, làng Giồng ở xã Hương Nguyên… hỏi về những phong tục lễ hội, những điệu hát, câu lý của đồng bào Cơ Tu… mà đâu như ai cũng không còn nhớ. Họ chỉ lõm bõm đôi ba câu chắp nối. Sau gần một tháng với những cuộc gặp gỡ mà như người châm lửa, khoảng đầu năm 2018, tôi ngỡ ngàng khi từ các già làng đến cô học sinh đều sáng tác dựa trên bài hát lý truyền thống của đồng bào. Những gương mặt nép mình e ngại sau liếp cửa đã thay bằng tiếng hát sơn ca của núi, tiếng hát của mặt trời, tiếng hát trong trẻo của nhạc rừng. Tháng 5 năm 2019, gần ba trăm người thuộc nhiều thế hệ của toàn xã Hương Nguyên đã hân hoan đến dự lễ hội tạ ơn Giàng Xứ. Lễ hội truyền thống tạ ơn rừng núi, giang sơn, cầu mong mưa thuận gió hòa, thái bình, hạnh phúc lớn nhất của đồng bào Cơ Tu. Lên đèo Tà Lương, đến xã Hương Nguyên suốt tuần lễ này tiếng chiêng la, tiếng khèn, tiếng trống, tiếng hát vang vọng… phong tục tưởng đã vang bóng một thời đã hồi sinh theo các giai điệu gọi Giàng như nguyện vọng của người dân mà tôi đã góp phần khơi gợi trở lại. Cảm giác như vừa bước qua những mảnh vỡ của ký ức tìm chất keo là lòng tự hào dân tộc để kết dính. Hiếm thấy ở đâu, tình yêu dành cho thiên nhiên lại tự nhiên như ở đây. Sau bốn mươi bốn năm vắng bóng, lần đầu tiên lễ hội tạ ơn Giàng xứ được khôi phục. Sự trân trọng những đồi cây, ngọn suối đã che chở sự sống có trong mạch ngầm thầm thì từ quá khứ đến tương lai. Trong đó phần lễ nghi thức gồm có: Tạ ơn rừng núi bởi những điều xấu đã xảy đến, dựng cây nêu, hiến tế nông sản sống. Đặc biệt chính lễ còn có nghi thức hiến tế khi các vật phẩm đã chín, tạ ơn ngọn đồi A Bá nơi đầu nguồn nước của xã Hương Nguyên. Tôi đã lặng đi khi chứng kiến hội đồng già làng hát lý đối đáp, hiến tế chuối, dứa, sắn, bắp, gạo… bà con múa Tân tung za zá quanh cây nêu cầu mong may mắn. Bên cạnh phần nghi thức trang trọng phần hội thu hút hàng trăm nam nữ thanh niên tham gia chơi các trò chơi dân gian như kéo co, trèo cột mỡ, hát dân ca với các làn điệu Ba Bội, Cha Chấp…; các em búp măng non của trường mầm non xã Hương Nguyên trải nghiệm ở lễ hội truyền thống, học về các vật phẩm có trong lễ hiến tế, chơi trò chơi dân gian. Các thôn như Giồng, Tù Mú Tà Rá tham gia thi nấu ẩm thực truyền thống đậm đà bản sắc. Già làng Hồ Văn Hương ngồi trong hội trường năm ấy trên 90 tuổi, cụ nói rằng: “Già dù tuổi cao nhưng biết sáng nay có lễ cho Giàng xứ, già nói con cháu đưa tới đây để chứng kiến. Lễ hội nuôi phần hồn người Cơ Tu, như nuôi cây để tre già măng mọc, những người thế hệ trước truyền dạy đạo lý cho thế hệ sau”. Mới thấy cách ứng xử nghiêm cẩn trước thiên nhiên của đồng bào Cơ Tu từ ngàn xưa là cách ứng xử đầy minh triết mà giờ đây chúng ta cần xem rừng như một “tĩnh mạch của đất”, là “chốn thiêng liêng”, là “sinh mệnh”, là “mẹ” của chúng ta… như David Suzuki đã từng nói. Bởi thế chăng, một ngày đi lễ hội đổi lấy bốn xuân, hạ, thu, đông miệt mài cũng đáng và đáng nhất khi tuổi đương trẻ, đương thanh niên.

*

Màn đêm buông. Tôi nán lại A Lưới xin một đêm ríu ran. Hạ về trong hơi gió, nhè nhẹ, lành lạnh. Những chộn rộn của ngày thu xếp lại, tôi tìm đến Việt Tiến xã Hồng Kim chỉ vì trót mơ về một đêm được ngủ như trên đồng. Ở làng Việt Tiến có năm homestay, có homestay ở trên đồi, có homestay ở bên bờ suối. Ở đây tiếng thác dội, tiếng suối rì rào làm nhạc nước hoan ca. Chợt nhớ những năm 2013, bên nhà sàn với tô rượu đoác, nguyên Trưởng phòng Văn hóa huyện A Lưới anh Hồ Văn Ngoan kể chuyện có đôi trai gái Pa Cô yêu nhau chẳng đặng, mẹ cha cấm ngăn, thương nhớ không quên không nguôi đã rủ nhau lên thác Anor sống. Cho đến khi chàng trai để vẹn lời thề trăm năm đã cùng cô gái hóa kiếp mãi mãi vào trong dòng nước… Thác Anor có 3 thác liên hoàn, nước rào rạt quanh năm không bao giờ dứt như tình yêu của đôi trai gái Pa Cô truyền kể trong đồng bào nơi đây. Để mỗi mùa xuân đến khi hoa lan đã tím, khi con chim prich kêu người người ở A Lưới lại nhớ đến chuyện tình buồn không có chương đám cưới hay hạnh phúc riêng mình.

Qua dốc có homestay nhỏ, ở nhà sàn. Tre đan gùi, tre đan rá, rổ, tre làm giỏ hoa thả đôi cành dương xỉ xanh đã xinh lại thư giãn cho mắt tắm rừng, thiền rừng mọi chỗ mọi nơi. Chị Vưa, cùng hai con nhóm than nấu nồi xôi nếp than đãi khách. Nếp than dẻo nhưng hạt rời, màu tím như ai vắt sim chín rưới trên những hạt ngọc trời để nhuộm. Xào một dĩa rau lá sắn với muối dã ớt xiêm xanh rừng, rắc ít hạt mắc khén đã thơm thơm vị chanh vị sả tự nhiên, nướng ống thịt heo bản với lá rừng… ăn ngậm mà nghe cái bùi bùi chát chát lại ngọt. Nhớ cồn cào khi về xuôi ăn bất cứ món gì cũng nghĩ đến bữa cơm chiều đượm than lửa và núi. Ngồi bên đống củi đỏ tắt lửa chỉ còn than, đem vùi đôi củ khoai lang mật cho đến nức thơm.

Tôi thấy mình như vừa đi qua những siêu thị khổng lồ ở đó chưng đầy những quyến rũ và ríu ran của đất của người phố núi mà để mua chỉ có cách lặng im. Tôi ngó lên, trăng thượng tuần khuyết nửa đêm nay thoắt ẩn thoắt hiện sau mây như cùng lặng thinh nghe tiếng rào rào thác xối trầm hùng trong vách núi. Chị Vưa khoác chiếc váy dzèng đẹp nhất đi xuống dưới homestay khác vội vã mỉm cười nói: “Chị bận đi múa cho đoàn khách cùng tổ dịch vụ”. Nghe một người phụ nữ quanh năm lấy công việc làm rẫy và bốc vác bận bịu khi đêm về cũng tò mò, chúng tôi đi theo.

Váy dzèng dịu hiền trong đêm trăng, dập dìu bên ngọn lửa ấm. Khách du lịch ngỡ ngàng với những vũ điệu của hồn nhiên. Tôi ngồi trên nhà sàn ngắm trăng, trăng sáng cõi trăng, trăng vằng vặc, còn tâm tưởng tôi dò dẫm từng bậc thang hy vọng. Tôi ở lại với bản làng, đi với đêm đặc quánh, lâu lâu ngước theo ảo ảnh. Đêm tĩnh như trăng ở A Lưới đã nói tôi hay ríu ran nghe rõ hơn trong sự biết, biết im lặng.

Đêm ấy, ngủ trong căn nhà gỗ lọt khe gió, tiếng ếch, ệnh oạng, tiếng vũ nữ, tiếng dế tiu tiu rền khắp giấc mơ.

H.H.P
(TCSH402/08-2022)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...