Lên ngàn tìm tiếng ríu ran

14:21 16/09/2022

HẢI HẠC PHAN
     Bút ký dự thi

Con chim xanh tìm hạt dẻ sa cánh chợt khép mỏ vút bay khi nghe tiếng động cơ xe di chuyển về phía Tây dãy Trường Sơn.

Ảnh: internet

A Lưới! A Lưới! Tiếng ríu ran từ trong tàng cây của côn trùng trở mùa sinh sôi, tiếng cười giòn tươi như chùm hoa nắc nẻ của những bé em người Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu gọi tên một vùng đất tôi yêu. Tiếng ríu ran cuộn lòng người trĩu âu lo phố thị chợt nhẹ nhàng trong suốt như dòng thác Anor tuôn chảy ra suối về làng Việt Tiến xã Hồng Kim. Nước mát ngầm nuôi dưỡng những bông hoa sim tháng tư tím phơn phớt hồng, cao mảnh nép vào nhà sàn bung nụ chờ ngày ra quả, lên men dẫn lối anh chị dưới xuôi lên.

Buổi sáng nào sương mù cũng về như lời giao hẹn của miền sơn cước với con người từ ngàn xưa. Tâm, cô em làm giảng viên đi từ Đà Nẵng cùng chồng rủ nhau cưỡi con xe airblade đời đầu trèo gần hai mươi kilomet lên đèo A Co. Từ con đường Trường Sơn quanh co, thỉnh thoảng những bầy gà rừng loi choi chạy loăng quăng bên sườn núi là hoạt cảnh bất ngờ khiến Tâm “ồ” lên thích thú. Đứng đợi sương ở đây khi không khí trên cao tan loãng, đám mây tràn về sà nhanh chớp mắt sương đã quấn quanh tạo thành rừng sương, dòng sông sương mờ ảo. Ánh nắng núi đam mê gọi tôi suốt bao ngày trong bốn bức tường thành thị, bên cửa sổ hẻm phố sực nức mùi rượu vang khiến tôi thôi bất an tìm nhiều hơn những gì đang có.

Buổi chiều từ trên ngọn đồi Cội Nguồn nhìn ra bản làng trù mật ở thị trấn A Lưới, thị trấn nhỏ chỉ bằng phần mười thị trấn Măng Đen của cao nguyên Kon Tum song huyên náo hơn. Chiều chiều những sản vật núi bày bán như: thơm, dưa gang, chuối, mít, khoai lang mật… từng mớ từng mớ thơm nức. Các sơn nữ ngồi trước đường mòn Hồ Chí Minh đón khách vãng lai ghé A Lưới dừng mua với nụ cười trong veo, tuyệt nhiên không có lời mời mọc kì nèo. Những người bán hàng lại ríu ran khi khách rời đi với những chuyện được mùa mất mùa, con bò ai đi lạc, ong vò vẽ làm tổ trên ngọn mít sau nhà.

Hoàng hôn buông xuống màu gạch mới mờ nhờ sương mỏng dần dãy núi trước đậm, sau nhạt, những rặng cao hơn chìm khuất sau áo choàng mây trắng. Chân đồi chỉ mới ken kín hoa sim vài ba năm đã sớm thành hoài niệm, thành nỗi xuyến xao lưu luyến cho những ai từng đặt chân tới. Chiều ở trong núi mà bâng khuâng bước lên bước xuống nhớ núi thêm trăm ngàn lần. Chân đồi Cội Nguồn trải đầy hoa sim rừng tạo tác nên một không gian cho những đôi trẻ mắt nhung hẹn hò. Thản nhiên một cây dương xỉ cao quá gối hay một bầy chim sáo lóc chóc chia sâu dù đã sang mùa hóa bướm sặc sỡ trăm màu, bảo sao chẳng nhớ da diết thiết tha. Thi thoảng tôi nhận ra trong rừng, một người trưởng thành đầy âu lo trong tôi rã như lá mục, chỉ còn đứa trẻ với ánh nắng vàng rực sơ sinh, một tiên nữ nép mình trong lớp áo thơm mùi nhựa thông, thơm như một lần tôi đã xuất hiện trong buổi hẹn đầu tiên và đầy lúng túng. Những gì con người tạo ra đôi khi nhàm chán bởi chúng thường giống nhau, chỉ có thiên nhiên là luôn trao cho ta những bất ngờ vô tận với những biến đổi không ngừng.

Chiều bâng khuâng trước những tấm váy dzèng đơn sơ màu cây cỏ. Các chị các em lướt qua con dốc lòa xòa cây lá, váy lướt đến đâu cỏ hoa bừng lên lung linh tới đó. Tấm vải được nhuộm từ hương cỏ, hương cây của núi rừng đại ngàn, từ thế giới tâm hồn hiền hậu, chịu khó chịu thương của con người và sự phóng khoáng của cảnh sắc miền sơn cước. Đen, đỏ, xanh, vàng và tím cộng với sự chấm phá của những hạt cườm trắng trên mỗi bộ trang phục làm toát lên vẻ hài hòa tuyệt đẹp của ngũ sắc. Xưa kia dệt dzèng gắn bó với rừng xanh, người Tà Ôi dùng vỏ cây Clang là loại cây lớn để làm áo choàng che thân. Loại áo quần này đến nay A Lưới chỉ còn giữ được hai bộ. Sự ra đời của dzèng cũng ảo mờ như lịch sử ra đời của những huyền tích về Giàng Đất, Giàng Nông… mỗi người một cách lý giải riêng. Chỉ biết rằng chiếc váy giờ đây đã thay đổi nhiều. Truyền thuyết không quên khoác cho loại vải này một màu sắc thần kỳ, rằng: dệt dzèng sinh ra trên miền đất biên viễn mùa hè nóng nực, oi ả, mùa đông lạnh giá căm căm. Truyền nghề cho dương gian chính là người đàn bà tên Cănpơnu. Chuyện kể sau khi học ở trên trời hàng trăm nghề, khi về lại trần gian, bà đã dạy cho các thiếu nữ nghề dệt để họ có áo, váy và khố nhằm chống lại giá rét của mùa đông và sương núi. Dệt dzèng bắt đầu cuộc đời lưu lạc ra Phong Điền, Thừa Thiên Huế, ra Đắc Rông, Quảng Trị theo những quãng quên lãng, tùy táng và thất lạc. Thế mà giờ đây vui thay không chỉ trong lễ hội mới được nhìn thấy bà con mặc dzèng. Dzèng còn được dùng may những con thú bông, may giày, móc khóa rồi đi ra những sân khấu lớn. Mỗi tầng váy lướt qua là ngàn cây bông sợi, cây râu, rễ cây nao kun, cây kha krung, củ nâu, dây đằng đằng, vỏ xoắn ốc tươi trầm màu bờ suối, bìa rừng ẩn hiện. Thời gian luôn hà khắc với những gì không đủ sức chống chọi lại nó. Thời gian cũng công bằng gạn lọc vạn vật sinh tồn được trong thế giới luôn luôn biến chuyển này. Vẻ đẹp không lấp lánh, điệu đà, không kiêu kỳ hay xa hoa hồn người làm ra nó như thế nào, váy làm từ vải dzèng như vậy… giản dị mà vẫn lộng lẫy, đến ngỡ ngàng.

Màu xanh của lá thông đan vào bầu trời xanh, cây tiếp cây, rừng tiếp rừng, tít tắp, vời vợi như những nhớ thương của tôi với phố núi. Tôi nhớ những ngày xưa, bài hát tình ca A Lưới nhạc sĩ nào viết cho đại ngàn đã ngợi ca “không nơi đâu đẹp như quê mình”. Tôi vu vơ hát, phát âm từ A Lưới cho đúng cao độ rồi bật cười khi thức giấc được hồn nhiên trong chính trái tim ngoài ba mươi biết suy ngợi dài ngắn trong đời. Từ trong tâm khảm tôi màu xanh của rừng dường như cũng có tiếng ríu ran nên rừng luôn vẫy gọi đến, đi, trở về, trở lại khi muốn xoa dịu cõi lòng cõi đời nhiều xao động.

*

Tôi thấy nhớ tiếng Âng Kro của nghệ nhân Quỳnh Hoàng chế tác, được anh nghệ nhân trẻ Rà Giờ thổi năm nào. Nhớ lời đong đưa: “Em ơi em/ Anh làm chiếc Âng Kro/ Để đàn nói giùm anh/ những điều không nói được”. Anh Rà Giờ thổi bài này bên suối như thể đợi người yêu. Suối rì rầm, suối gọi bàn chân xinh, bàn chân nứt nẻ, bàn chân lấm đất hãy đặt xuống đây ngâm cho mát lạnh tan tận mọi mệt nhọc. Lời ca da diết trong điệu Kà Lơi ngân nga là tình cảm của chàng trai mượn chiếc đàn thổi cho người yêu nghe từ loại nhạc cụ truyền thống mà bà con Tà Ôi, Pa Cô gọi là Nkoaiq - Nkrao, đồng bào Cơ Tu ở A Lưới quen gọi là Âng Kro, còn người Kinh gọi là đàn môi.

Những cây đàn làm bằng tre, một số ít được làm bằng đồng có hình dáng tựa như chiếc lá tre mỏng có cuống. Với người chẳng quen biết, nhờ tiếng đàn làm quen, nhờ tiếng đàn gọi người thương. Đàn trông nhỏ bé, đơn sơ nhưng cần bàn tay khéo, tỉ mỉ và công phu. Để tìm được nguyên liệu làm đàn, lời ca Kà Lơi nói lên công đoạn ban đầu không hề dễ. “Anh lên trên núi cao/ Chọn cây tre già nhất/ Chọn cây tre tốt nhất/ Lấy đoạn tre tốt nhất”. Anh Rà Giờ đứng dưới nắng ngậm hờ Âng Kro vào môi rồi dùng hơi từ vòm họng làm hộp cộng hưởng kết hợp động tác của ngón trỏ búng vào cái đỉnh tam giác được uốn cong ra ngoài. Tay trái anh giữ gốc đàn chính là phần trông như một cuống lá. Cao độ không phải lúc nào cũng chuẩn xác bởi ngón trỏ búng làm rung lưỡi gà lúc mạnh khi nhẹ, vòm miệng làm hộp cộng hưởng lại chi phối bằng việc thay đổi khẩu hình do đó âm thanh phát ra bộc bạch tiếng lòng tình tứ, giản dị mà hoang dã. Tiếng suối gần tiếng thác xa, tiếng Âng Kro làm xao xuyến bước chân người con gái xa nhà.

Xa vắng lắm rồi ký ức còn trong các già làng, trong một lần tìm cho kỳ được nghệ nhân cuối cùng để ghi hình phim tài liệu “Giữ lấy âm vang Nkoaiq-Nkrao-Âng Kro”. Âm vang vẫn chưa thực sự trở lại trong đời sống, mà chỉ ở lại trong trí nhớ một số người hay “cắc cớ” hoài niệm. Ở thác Toom xã Hồng Hạ đã phục dựng tục đi sim, những lễ hội cúng Giàng xứ, Aza, dâng dzèng đã trẩy trở lại, áo dzèng đã ra chợ, đến trường, vào công sở, lên nương… Điệu hát Kà Lơi, Cha Chấp, điệu múa Tân tung za zá, chiêng, trống, tù và đã ông oang gần xa. Những cây đàn Âng Kro giờ đây không chỉ nhỏ bé về vật chất mà còn lạ lẫm với cả những bạn trẻ của A Lưới trước chính bản sắc của đồng bào mình. Đàn gọi bạn vuốt từ thân tre, nhỏ như một chiếc lá rủ rỉ bốn mùa cùng bao thề hẹn, bao cuộc tình, bao tuổi trẻ xuân xanh của bao người miền ngược lẫn miền xuôi lên đây không về mà ở lại. Tôi thiên di theo vi vút của những con dốc của làng Việt Tiến muốn nghe hết tiếng đàn môi sau bờ rào của anh chàng Pa Cô nọ có chạm đến lòng lành của cô gái Hồ Thị Nhuận đang thả chân xuống bờ suối A Tép. Tiếng đàn mai một như cuộc tình đầu nào cũng dễ lìa xa. Những lời tình “Làm chiếc đàn khéo nhất/ Lựa những lời hay nhất/ Để nói với em những lời chân thật/ Thương em nhiều nhất/ Em ơi, em có biết không”? Tôi cứ nghe ríu ran biết mấy với Âng Kro và nghĩ có ngày chiếc đàn tình bé nhỏ sẽ đóng khung trong bảo tàng, trong ký ức người già khuất núi mà thôi.

*

Tôi trèo lên đỉnh đồi với con đường chẳng khác nào dốc thác đến với ruộng lúa Ra Dư - loại lúa chỉ dành cho chàng rể với câu chuyện cổ của đồng bào Pa Cô về chàng Pút. Tôi chinh phục những bậc đá đồi cheo leo mặc các đấng nam nhi đi rừng chuyên nghiệp liên tục khuyên hãy quay lại. Tôi ngồi bên con suối nghe chuyện tuổi thơ của Kiêm, Phó Chủ tịch xã Hương Nguyên gắn bó với rừng, với con cua, con cá… Ruộng Ra Dư trồng trên đất keo tràm mới khai thác trông mây mẩy hơn trên rẫy, chim chóc kéo về ríu ran cả bầu trời tìm hạt. Buổi trưa một cậu nhóc bắt được giỏ cá suối lấp ló ngoài lán trại, tôi giả đò xin thì cậu chỉ biết “Dạ… dạ” rồi tôi những tưởng cậu nhóc tiếc công lần mò cả buổi sẽ không cho. Đến khi tôi ăn trưa gần xong cậu mang nguyên giỏ cá tới, nói gì đó bằng tiếng Cơ Tu, đại để: Anh chị thích con nào thì lấy đi. Đôi khi, trong một ngày trời oi chớm hạ, sự thểu thảo của ai đó khiến lòng ta mát mẻ như được nhảy ùm xuống thác. Một câu nói mà thương lạ. Nhưng tất nhiên chúng tôi từ chối nhận không. Lần trở lại A Lưới này cần khoảng không gian khi vừa qua những lỡ dở, những quyến luyến trong đời.

Hôm nay con chim Khuyên thảng nghe tiếng người cũng ríu ran gọi nhau bay tới cánh đồng màu cam của hoa sâm Bố Chính mùa hè. Tôi tìm những người già nhất những làng Tù Mú Tà Rá, làng Giồng ở xã Hương Nguyên… hỏi về những phong tục lễ hội, những điệu hát, câu lý của đồng bào Cơ Tu… mà đâu như ai cũng không còn nhớ. Họ chỉ lõm bõm đôi ba câu chắp nối. Sau gần một tháng với những cuộc gặp gỡ mà như người châm lửa, khoảng đầu năm 2018, tôi ngỡ ngàng khi từ các già làng đến cô học sinh đều sáng tác dựa trên bài hát lý truyền thống của đồng bào. Những gương mặt nép mình e ngại sau liếp cửa đã thay bằng tiếng hát sơn ca của núi, tiếng hát của mặt trời, tiếng hát trong trẻo của nhạc rừng. Tháng 5 năm 2019, gần ba trăm người thuộc nhiều thế hệ của toàn xã Hương Nguyên đã hân hoan đến dự lễ hội tạ ơn Giàng Xứ. Lễ hội truyền thống tạ ơn rừng núi, giang sơn, cầu mong mưa thuận gió hòa, thái bình, hạnh phúc lớn nhất của đồng bào Cơ Tu. Lên đèo Tà Lương, đến xã Hương Nguyên suốt tuần lễ này tiếng chiêng la, tiếng khèn, tiếng trống, tiếng hát vang vọng… phong tục tưởng đã vang bóng một thời đã hồi sinh theo các giai điệu gọi Giàng như nguyện vọng của người dân mà tôi đã góp phần khơi gợi trở lại. Cảm giác như vừa bước qua những mảnh vỡ của ký ức tìm chất keo là lòng tự hào dân tộc để kết dính. Hiếm thấy ở đâu, tình yêu dành cho thiên nhiên lại tự nhiên như ở đây. Sau bốn mươi bốn năm vắng bóng, lần đầu tiên lễ hội tạ ơn Giàng xứ được khôi phục. Sự trân trọng những đồi cây, ngọn suối đã che chở sự sống có trong mạch ngầm thầm thì từ quá khứ đến tương lai. Trong đó phần lễ nghi thức gồm có: Tạ ơn rừng núi bởi những điều xấu đã xảy đến, dựng cây nêu, hiến tế nông sản sống. Đặc biệt chính lễ còn có nghi thức hiến tế khi các vật phẩm đã chín, tạ ơn ngọn đồi A Bá nơi đầu nguồn nước của xã Hương Nguyên. Tôi đã lặng đi khi chứng kiến hội đồng già làng hát lý đối đáp, hiến tế chuối, dứa, sắn, bắp, gạo… bà con múa Tân tung za zá quanh cây nêu cầu mong may mắn. Bên cạnh phần nghi thức trang trọng phần hội thu hút hàng trăm nam nữ thanh niên tham gia chơi các trò chơi dân gian như kéo co, trèo cột mỡ, hát dân ca với các làn điệu Ba Bội, Cha Chấp…; các em búp măng non của trường mầm non xã Hương Nguyên trải nghiệm ở lễ hội truyền thống, học về các vật phẩm có trong lễ hiến tế, chơi trò chơi dân gian. Các thôn như Giồng, Tù Mú Tà Rá tham gia thi nấu ẩm thực truyền thống đậm đà bản sắc. Già làng Hồ Văn Hương ngồi trong hội trường năm ấy trên 90 tuổi, cụ nói rằng: “Già dù tuổi cao nhưng biết sáng nay có lễ cho Giàng xứ, già nói con cháu đưa tới đây để chứng kiến. Lễ hội nuôi phần hồn người Cơ Tu, như nuôi cây để tre già măng mọc, những người thế hệ trước truyền dạy đạo lý cho thế hệ sau”. Mới thấy cách ứng xử nghiêm cẩn trước thiên nhiên của đồng bào Cơ Tu từ ngàn xưa là cách ứng xử đầy minh triết mà giờ đây chúng ta cần xem rừng như một “tĩnh mạch của đất”, là “chốn thiêng liêng”, là “sinh mệnh”, là “mẹ” của chúng ta… như David Suzuki đã từng nói. Bởi thế chăng, một ngày đi lễ hội đổi lấy bốn xuân, hạ, thu, đông miệt mài cũng đáng và đáng nhất khi tuổi đương trẻ, đương thanh niên.

*

Màn đêm buông. Tôi nán lại A Lưới xin một đêm ríu ran. Hạ về trong hơi gió, nhè nhẹ, lành lạnh. Những chộn rộn của ngày thu xếp lại, tôi tìm đến Việt Tiến xã Hồng Kim chỉ vì trót mơ về một đêm được ngủ như trên đồng. Ở làng Việt Tiến có năm homestay, có homestay ở trên đồi, có homestay ở bên bờ suối. Ở đây tiếng thác dội, tiếng suối rì rào làm nhạc nước hoan ca. Chợt nhớ những năm 2013, bên nhà sàn với tô rượu đoác, nguyên Trưởng phòng Văn hóa huyện A Lưới anh Hồ Văn Ngoan kể chuyện có đôi trai gái Pa Cô yêu nhau chẳng đặng, mẹ cha cấm ngăn, thương nhớ không quên không nguôi đã rủ nhau lên thác Anor sống. Cho đến khi chàng trai để vẹn lời thề trăm năm đã cùng cô gái hóa kiếp mãi mãi vào trong dòng nước… Thác Anor có 3 thác liên hoàn, nước rào rạt quanh năm không bao giờ dứt như tình yêu của đôi trai gái Pa Cô truyền kể trong đồng bào nơi đây. Để mỗi mùa xuân đến khi hoa lan đã tím, khi con chim prich kêu người người ở A Lưới lại nhớ đến chuyện tình buồn không có chương đám cưới hay hạnh phúc riêng mình.

Qua dốc có homestay nhỏ, ở nhà sàn. Tre đan gùi, tre đan rá, rổ, tre làm giỏ hoa thả đôi cành dương xỉ xanh đã xinh lại thư giãn cho mắt tắm rừng, thiền rừng mọi chỗ mọi nơi. Chị Vưa, cùng hai con nhóm than nấu nồi xôi nếp than đãi khách. Nếp than dẻo nhưng hạt rời, màu tím như ai vắt sim chín rưới trên những hạt ngọc trời để nhuộm. Xào một dĩa rau lá sắn với muối dã ớt xiêm xanh rừng, rắc ít hạt mắc khén đã thơm thơm vị chanh vị sả tự nhiên, nướng ống thịt heo bản với lá rừng… ăn ngậm mà nghe cái bùi bùi chát chát lại ngọt. Nhớ cồn cào khi về xuôi ăn bất cứ món gì cũng nghĩ đến bữa cơm chiều đượm than lửa và núi. Ngồi bên đống củi đỏ tắt lửa chỉ còn than, đem vùi đôi củ khoai lang mật cho đến nức thơm.

Tôi thấy mình như vừa đi qua những siêu thị khổng lồ ở đó chưng đầy những quyến rũ và ríu ran của đất của người phố núi mà để mua chỉ có cách lặng im. Tôi ngó lên, trăng thượng tuần khuyết nửa đêm nay thoắt ẩn thoắt hiện sau mây như cùng lặng thinh nghe tiếng rào rào thác xối trầm hùng trong vách núi. Chị Vưa khoác chiếc váy dzèng đẹp nhất đi xuống dưới homestay khác vội vã mỉm cười nói: “Chị bận đi múa cho đoàn khách cùng tổ dịch vụ”. Nghe một người phụ nữ quanh năm lấy công việc làm rẫy và bốc vác bận bịu khi đêm về cũng tò mò, chúng tôi đi theo.

Váy dzèng dịu hiền trong đêm trăng, dập dìu bên ngọn lửa ấm. Khách du lịch ngỡ ngàng với những vũ điệu của hồn nhiên. Tôi ngồi trên nhà sàn ngắm trăng, trăng sáng cõi trăng, trăng vằng vặc, còn tâm tưởng tôi dò dẫm từng bậc thang hy vọng. Tôi ở lại với bản làng, đi với đêm đặc quánh, lâu lâu ngước theo ảo ảnh. Đêm tĩnh như trăng ở A Lưới đã nói tôi hay ríu ran nghe rõ hơn trong sự biết, biết im lặng.

Đêm ấy, ngủ trong căn nhà gỗ lọt khe gió, tiếng ếch, ệnh oạng, tiếng vũ nữ, tiếng dế tiu tiu rền khắp giấc mơ.

H.H.P
(TCSH402/08-2022)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách