HẢI HẠC PHAN
Bút ký dự thi
Con chim xanh tìm hạt dẻ sa cánh chợt khép mỏ vút bay khi nghe tiếng động cơ xe di chuyển về phía Tây dãy Trường Sơn.
Ảnh: internet
A Lưới! A Lưới! Tiếng ríu ran từ trong tàng cây của côn trùng trở mùa sinh sôi, tiếng cười giòn tươi như chùm hoa nắc nẻ của những bé em người Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu gọi tên một vùng đất tôi yêu. Tiếng ríu ran cuộn lòng người trĩu âu lo phố thị chợt nhẹ nhàng trong suốt như dòng thác Anor tuôn chảy ra suối về làng Việt Tiến xã Hồng Kim. Nước mát ngầm nuôi dưỡng những bông hoa sim tháng tư tím phơn phớt hồng, cao mảnh nép vào nhà sàn bung nụ chờ ngày ra quả, lên men dẫn lối anh chị dưới xuôi lên.
Buổi sáng nào sương mù cũng về như lời giao hẹn của miền sơn cước với con người từ ngàn xưa. Tâm, cô em làm giảng viên đi từ Đà Nẵng cùng chồng rủ nhau cưỡi con xe airblade đời đầu trèo gần hai mươi kilomet lên đèo A Co. Từ con đường Trường Sơn quanh co, thỉnh thoảng những bầy gà rừng loi choi chạy loăng quăng bên sườn núi là hoạt cảnh bất ngờ khiến Tâm “ồ” lên thích thú. Đứng đợi sương ở đây khi không khí trên cao tan loãng, đám mây tràn về sà nhanh chớp mắt sương đã quấn quanh tạo thành rừng sương, dòng sông sương mờ ảo. Ánh nắng núi đam mê gọi tôi suốt bao ngày trong bốn bức tường thành thị, bên cửa sổ hẻm phố sực nức mùi rượu vang khiến tôi thôi bất an tìm nhiều hơn những gì đang có.
Buổi chiều từ trên ngọn đồi Cội Nguồn nhìn ra bản làng trù mật ở thị trấn A Lưới, thị trấn nhỏ chỉ bằng phần mười thị trấn Măng Đen của cao nguyên Kon Tum song huyên náo hơn. Chiều chiều những sản vật núi bày bán như: thơm, dưa gang, chuối, mít, khoai lang mật… từng mớ từng mớ thơm nức. Các sơn nữ ngồi trước đường mòn Hồ Chí Minh đón khách vãng lai ghé A Lưới dừng mua với nụ cười trong veo, tuyệt nhiên không có lời mời mọc kì nèo. Những người bán hàng lại ríu ran khi khách rời đi với những chuyện được mùa mất mùa, con bò ai đi lạc, ong vò vẽ làm tổ trên ngọn mít sau nhà.
Hoàng hôn buông xuống màu gạch mới mờ nhờ sương mỏng dần dãy núi trước đậm, sau nhạt, những rặng cao hơn chìm khuất sau áo choàng mây trắng. Chân đồi chỉ mới ken kín hoa sim vài ba năm đã sớm thành hoài niệm, thành nỗi xuyến xao lưu luyến cho những ai từng đặt chân tới. Chiều ở trong núi mà bâng khuâng bước lên bước xuống nhớ núi thêm trăm ngàn lần. Chân đồi Cội Nguồn trải đầy hoa sim rừng tạo tác nên một không gian cho những đôi trẻ mắt nhung hẹn hò. Thản nhiên một cây dương xỉ cao quá gối hay một bầy chim sáo lóc chóc chia sâu dù đã sang mùa hóa bướm sặc sỡ trăm màu, bảo sao chẳng nhớ da diết thiết tha. Thi thoảng tôi nhận ra trong rừng, một người trưởng thành đầy âu lo trong tôi rã như lá mục, chỉ còn đứa trẻ với ánh nắng vàng rực sơ sinh, một tiên nữ nép mình trong lớp áo thơm mùi nhựa thông, thơm như một lần tôi đã xuất hiện trong buổi hẹn đầu tiên và đầy lúng túng. Những gì con người tạo ra đôi khi nhàm chán bởi chúng thường giống nhau, chỉ có thiên nhiên là luôn trao cho ta những bất ngờ vô tận với những biến đổi không ngừng.
Chiều bâng khuâng trước những tấm váy dzèng đơn sơ màu cây cỏ. Các chị các em lướt qua con dốc lòa xòa cây lá, váy lướt đến đâu cỏ hoa bừng lên lung linh tới đó. Tấm vải được nhuộm từ hương cỏ, hương cây của núi rừng đại ngàn, từ thế giới tâm hồn hiền hậu, chịu khó chịu thương của con người và sự phóng khoáng của cảnh sắc miền sơn cước. Đen, đỏ, xanh, vàng và tím cộng với sự chấm phá của những hạt cườm trắng trên mỗi bộ trang phục làm toát lên vẻ hài hòa tuyệt đẹp của ngũ sắc. Xưa kia dệt dzèng gắn bó với rừng xanh, người Tà Ôi dùng vỏ cây Clang là loại cây lớn để làm áo choàng che thân. Loại áo quần này đến nay A Lưới chỉ còn giữ được hai bộ. Sự ra đời của dzèng cũng ảo mờ như lịch sử ra đời của những huyền tích về Giàng Đất, Giàng Nông… mỗi người một cách lý giải riêng. Chỉ biết rằng chiếc váy giờ đây đã thay đổi nhiều. Truyền thuyết không quên khoác cho loại vải này một màu sắc thần kỳ, rằng: dệt dzèng sinh ra trên miền đất biên viễn mùa hè nóng nực, oi ả, mùa đông lạnh giá căm căm. Truyền nghề cho dương gian chính là người đàn bà tên Cănpơnu. Chuyện kể sau khi học ở trên trời hàng trăm nghề, khi về lại trần gian, bà đã dạy cho các thiếu nữ nghề dệt để họ có áo, váy và khố nhằm chống lại giá rét của mùa đông và sương núi. Dệt dzèng bắt đầu cuộc đời lưu lạc ra Phong Điền, Thừa Thiên Huế, ra Đắc Rông, Quảng Trị theo những quãng quên lãng, tùy táng và thất lạc. Thế mà giờ đây vui thay không chỉ trong lễ hội mới được nhìn thấy bà con mặc dzèng. Dzèng còn được dùng may những con thú bông, may giày, móc khóa rồi đi ra những sân khấu lớn. Mỗi tầng váy lướt qua là ngàn cây bông sợi, cây râu, rễ cây nao kun, cây kha krung, củ nâu, dây đằng đằng, vỏ xoắn ốc tươi trầm màu bờ suối, bìa rừng ẩn hiện. Thời gian luôn hà khắc với những gì không đủ sức chống chọi lại nó. Thời gian cũng công bằng gạn lọc vạn vật sinh tồn được trong thế giới luôn luôn biến chuyển này. Vẻ đẹp không lấp lánh, điệu đà, không kiêu kỳ hay xa hoa hồn người làm ra nó như thế nào, váy làm từ vải dzèng như vậy… giản dị mà vẫn lộng lẫy, đến ngỡ ngàng.
Màu xanh của lá thông đan vào bầu trời xanh, cây tiếp cây, rừng tiếp rừng, tít tắp, vời vợi như những nhớ thương của tôi với phố núi. Tôi nhớ những ngày xưa, bài hát tình ca A Lưới nhạc sĩ nào viết cho đại ngàn đã ngợi ca “không nơi đâu đẹp như quê mình”. Tôi vu vơ hát, phát âm từ A Lưới cho đúng cao độ rồi bật cười khi thức giấc được hồn nhiên trong chính trái tim ngoài ba mươi biết suy ngợi dài ngắn trong đời. Từ trong tâm khảm tôi màu xanh của rừng dường như cũng có tiếng ríu ran nên rừng luôn vẫy gọi đến, đi, trở về, trở lại khi muốn xoa dịu cõi lòng cõi đời nhiều xao động.
*
Tôi thấy nhớ tiếng Âng Kro của nghệ nhân Quỳnh Hoàng chế tác, được anh nghệ nhân trẻ Rà Giờ thổi năm nào. Nhớ lời đong đưa: “Em ơi em/ Anh làm chiếc Âng Kro/ Để đàn nói giùm anh/ những điều không nói được”. Anh Rà Giờ thổi bài này bên suối như thể đợi người yêu. Suối rì rầm, suối gọi bàn chân xinh, bàn chân nứt nẻ, bàn chân lấm đất hãy đặt xuống đây ngâm cho mát lạnh tan tận mọi mệt nhọc. Lời ca da diết trong điệu Kà Lơi ngân nga là tình cảm của chàng trai mượn chiếc đàn thổi cho người yêu nghe từ loại nhạc cụ truyền thống mà bà con Tà Ôi, Pa Cô gọi là Nkoaiq - Nkrao, đồng bào Cơ Tu ở A Lưới quen gọi là Âng Kro, còn người Kinh gọi là đàn môi.
Những cây đàn làm bằng tre, một số ít được làm bằng đồng có hình dáng tựa như chiếc lá tre mỏng có cuống. Với người chẳng quen biết, nhờ tiếng đàn làm quen, nhờ tiếng đàn gọi người thương. Đàn trông nhỏ bé, đơn sơ nhưng cần bàn tay khéo, tỉ mỉ và công phu. Để tìm được nguyên liệu làm đàn, lời ca Kà Lơi nói lên công đoạn ban đầu không hề dễ. “Anh lên trên núi cao/ Chọn cây tre già nhất/ Chọn cây tre tốt nhất/ Lấy đoạn tre tốt nhất”. Anh Rà Giờ đứng dưới nắng ngậm hờ Âng Kro vào môi rồi dùng hơi từ vòm họng làm hộp cộng hưởng kết hợp động tác của ngón trỏ búng vào cái đỉnh tam giác được uốn cong ra ngoài. Tay trái anh giữ gốc đàn chính là phần trông như một cuống lá. Cao độ không phải lúc nào cũng chuẩn xác bởi ngón trỏ búng làm rung lưỡi gà lúc mạnh khi nhẹ, vòm miệng làm hộp cộng hưởng lại chi phối bằng việc thay đổi khẩu hình do đó âm thanh phát ra bộc bạch tiếng lòng tình tứ, giản dị mà hoang dã. Tiếng suối gần tiếng thác xa, tiếng Âng Kro làm xao xuyến bước chân người con gái xa nhà.
Xa vắng lắm rồi ký ức còn trong các già làng, trong một lần tìm cho kỳ được nghệ nhân cuối cùng để ghi hình phim tài liệu “Giữ lấy âm vang Nkoaiq-Nkrao-Âng Kro”. Âm vang vẫn chưa thực sự trở lại trong đời sống, mà chỉ ở lại trong trí nhớ một số người hay “cắc cớ” hoài niệm. Ở thác Toom xã Hồng Hạ đã phục dựng tục đi sim, những lễ hội cúng Giàng xứ, Aza, dâng dzèng đã trẩy trở lại, áo dzèng đã ra chợ, đến trường, vào công sở, lên nương… Điệu hát Kà Lơi, Cha Chấp, điệu múa Tân tung za zá, chiêng, trống, tù và đã ông oang gần xa. Những cây đàn Âng Kro giờ đây không chỉ nhỏ bé về vật chất mà còn lạ lẫm với cả những bạn trẻ của A Lưới trước chính bản sắc của đồng bào mình. Đàn gọi bạn vuốt từ thân tre, nhỏ như một chiếc lá rủ rỉ bốn mùa cùng bao thề hẹn, bao cuộc tình, bao tuổi trẻ xuân xanh của bao người miền ngược lẫn miền xuôi lên đây không về mà ở lại. Tôi thiên di theo vi vút của những con dốc của làng Việt Tiến muốn nghe hết tiếng đàn môi sau bờ rào của anh chàng Pa Cô nọ có chạm đến lòng lành của cô gái Hồ Thị Nhuận đang thả chân xuống bờ suối A Tép. Tiếng đàn mai một như cuộc tình đầu nào cũng dễ lìa xa. Những lời tình “Làm chiếc đàn khéo nhất/ Lựa những lời hay nhất/ Để nói với em những lời chân thật/ Thương em nhiều nhất/ Em ơi, em có biết không”? Tôi cứ nghe ríu ran biết mấy với Âng Kro và nghĩ có ngày chiếc đàn tình bé nhỏ sẽ đóng khung trong bảo tàng, trong ký ức người già khuất núi mà thôi.
*
Tôi trèo lên đỉnh đồi với con đường chẳng khác nào dốc thác đến với ruộng lúa Ra Dư - loại lúa chỉ dành cho chàng rể với câu chuyện cổ của đồng bào Pa Cô về chàng Pút. Tôi chinh phục những bậc đá đồi cheo leo mặc các đấng nam nhi đi rừng chuyên nghiệp liên tục khuyên hãy quay lại. Tôi ngồi bên con suối nghe chuyện tuổi thơ của Kiêm, Phó Chủ tịch xã Hương Nguyên gắn bó với rừng, với con cua, con cá… Ruộng Ra Dư trồng trên đất keo tràm mới khai thác trông mây mẩy hơn trên rẫy, chim chóc kéo về ríu ran cả bầu trời tìm hạt. Buổi trưa một cậu nhóc bắt được giỏ cá suối lấp ló ngoài lán trại, tôi giả đò xin thì cậu chỉ biết “Dạ… dạ” rồi tôi những tưởng cậu nhóc tiếc công lần mò cả buổi sẽ không cho. Đến khi tôi ăn trưa gần xong cậu mang nguyên giỏ cá tới, nói gì đó bằng tiếng Cơ Tu, đại để: Anh chị thích con nào thì lấy đi. Đôi khi, trong một ngày trời oi chớm hạ, sự thểu thảo của ai đó khiến lòng ta mát mẻ như được nhảy ùm xuống thác. Một câu nói mà thương lạ. Nhưng tất nhiên chúng tôi từ chối nhận không. Lần trở lại A Lưới này cần khoảng không gian khi vừa qua những lỡ dở, những quyến luyến trong đời.
Hôm nay con chim Khuyên thảng nghe tiếng người cũng ríu ran gọi nhau bay tới cánh đồng màu cam của hoa sâm Bố Chính mùa hè. Tôi tìm những người già nhất những làng Tù Mú Tà Rá, làng Giồng ở xã Hương Nguyên… hỏi về những phong tục lễ hội, những điệu hát, câu lý của đồng bào Cơ Tu… mà đâu như ai cũng không còn nhớ. Họ chỉ lõm bõm đôi ba câu chắp nối. Sau gần một tháng với những cuộc gặp gỡ mà như người châm lửa, khoảng đầu năm 2018, tôi ngỡ ngàng khi từ các già làng đến cô học sinh đều sáng tác dựa trên bài hát lý truyền thống của đồng bào. Những gương mặt nép mình e ngại sau liếp cửa đã thay bằng tiếng hát sơn ca của núi, tiếng hát của mặt trời, tiếng hát trong trẻo của nhạc rừng. Tháng 5 năm 2019, gần ba trăm người thuộc nhiều thế hệ của toàn xã Hương Nguyên đã hân hoan đến dự lễ hội tạ ơn Giàng Xứ. Lễ hội truyền thống tạ ơn rừng núi, giang sơn, cầu mong mưa thuận gió hòa, thái bình, hạnh phúc lớn nhất của đồng bào Cơ Tu. Lên đèo Tà Lương, đến xã Hương Nguyên suốt tuần lễ này tiếng chiêng la, tiếng khèn, tiếng trống, tiếng hát vang vọng… phong tục tưởng đã vang bóng một thời đã hồi sinh theo các giai điệu gọi Giàng như nguyện vọng của người dân mà tôi đã góp phần khơi gợi trở lại. Cảm giác như vừa bước qua những mảnh vỡ của ký ức tìm chất keo là lòng tự hào dân tộc để kết dính. Hiếm thấy ở đâu, tình yêu dành cho thiên nhiên lại tự nhiên như ở đây. Sau bốn mươi bốn năm vắng bóng, lần đầu tiên lễ hội tạ ơn Giàng xứ được khôi phục. Sự trân trọng những đồi cây, ngọn suối đã che chở sự sống có trong mạch ngầm thầm thì từ quá khứ đến tương lai. Trong đó phần lễ nghi thức gồm có: Tạ ơn rừng núi bởi những điều xấu đã xảy đến, dựng cây nêu, hiến tế nông sản sống. Đặc biệt chính lễ còn có nghi thức hiến tế khi các vật phẩm đã chín, tạ ơn ngọn đồi A Bá nơi đầu nguồn nước của xã Hương Nguyên. Tôi đã lặng đi khi chứng kiến hội đồng già làng hát lý đối đáp, hiến tế chuối, dứa, sắn, bắp, gạo… bà con múa Tân tung za zá quanh cây nêu cầu mong may mắn. Bên cạnh phần nghi thức trang trọng phần hội thu hút hàng trăm nam nữ thanh niên tham gia chơi các trò chơi dân gian như kéo co, trèo cột mỡ, hát dân ca với các làn điệu Ba Bội, Cha Chấp…; các em búp măng non của trường mầm non xã Hương Nguyên trải nghiệm ở lễ hội truyền thống, học về các vật phẩm có trong lễ hiến tế, chơi trò chơi dân gian. Các thôn như Giồng, Tù Mú Tà Rá tham gia thi nấu ẩm thực truyền thống đậm đà bản sắc. Già làng Hồ Văn Hương ngồi trong hội trường năm ấy trên 90 tuổi, cụ nói rằng: “Già dù tuổi cao nhưng biết sáng nay có lễ cho Giàng xứ, già nói con cháu đưa tới đây để chứng kiến. Lễ hội nuôi phần hồn người Cơ Tu, như nuôi cây để tre già măng mọc, những người thế hệ trước truyền dạy đạo lý cho thế hệ sau”. Mới thấy cách ứng xử nghiêm cẩn trước thiên nhiên của đồng bào Cơ Tu từ ngàn xưa là cách ứng xử đầy minh triết mà giờ đây chúng ta cần xem rừng như một “tĩnh mạch của đất”, là “chốn thiêng liêng”, là “sinh mệnh”, là “mẹ” của chúng ta… như David Suzuki đã từng nói. Bởi thế chăng, một ngày đi lễ hội đổi lấy bốn xuân, hạ, thu, đông miệt mài cũng đáng và đáng nhất khi tuổi đương trẻ, đương thanh niên.
*
Màn đêm buông. Tôi nán lại A Lưới xin một đêm ríu ran. Hạ về trong hơi gió, nhè nhẹ, lành lạnh. Những chộn rộn của ngày thu xếp lại, tôi tìm đến Việt Tiến xã Hồng Kim chỉ vì trót mơ về một đêm được ngủ như trên đồng. Ở làng Việt Tiến có năm homestay, có homestay ở trên đồi, có homestay ở bên bờ suối. Ở đây tiếng thác dội, tiếng suối rì rào làm nhạc nước hoan ca. Chợt nhớ những năm 2013, bên nhà sàn với tô rượu đoác, nguyên Trưởng phòng Văn hóa huyện A Lưới anh Hồ Văn Ngoan kể chuyện có đôi trai gái Pa Cô yêu nhau chẳng đặng, mẹ cha cấm ngăn, thương nhớ không quên không nguôi đã rủ nhau lên thác Anor sống. Cho đến khi chàng trai để vẹn lời thề trăm năm đã cùng cô gái hóa kiếp mãi mãi vào trong dòng nước… Thác Anor có 3 thác liên hoàn, nước rào rạt quanh năm không bao giờ dứt như tình yêu của đôi trai gái Pa Cô truyền kể trong đồng bào nơi đây. Để mỗi mùa xuân đến khi hoa lan đã tím, khi con chim prich kêu người người ở A Lưới lại nhớ đến chuyện tình buồn không có chương đám cưới hay hạnh phúc riêng mình.
Qua dốc có homestay nhỏ, ở nhà sàn. Tre đan gùi, tre đan rá, rổ, tre làm giỏ hoa thả đôi cành dương xỉ xanh đã xinh lại thư giãn cho mắt tắm rừng, thiền rừng mọi chỗ mọi nơi. Chị Vưa, cùng hai con nhóm than nấu nồi xôi nếp than đãi khách. Nếp than dẻo nhưng hạt rời, màu tím như ai vắt sim chín rưới trên những hạt ngọc trời để nhuộm. Xào một dĩa rau lá sắn với muối dã ớt xiêm xanh rừng, rắc ít hạt mắc khén đã thơm thơm vị chanh vị sả tự nhiên, nướng ống thịt heo bản với lá rừng… ăn ngậm mà nghe cái bùi bùi chát chát lại ngọt. Nhớ cồn cào khi về xuôi ăn bất cứ món gì cũng nghĩ đến bữa cơm chiều đượm than lửa và núi. Ngồi bên đống củi đỏ tắt lửa chỉ còn than, đem vùi đôi củ khoai lang mật cho đến nức thơm.
Tôi thấy mình như vừa đi qua những siêu thị khổng lồ ở đó chưng đầy những quyến rũ và ríu ran của đất của người phố núi mà để mua chỉ có cách lặng im. Tôi ngó lên, trăng thượng tuần khuyết nửa đêm nay thoắt ẩn thoắt hiện sau mây như cùng lặng thinh nghe tiếng rào rào thác xối trầm hùng trong vách núi. Chị Vưa khoác chiếc váy dzèng đẹp nhất đi xuống dưới homestay khác vội vã mỉm cười nói: “Chị bận đi múa cho đoàn khách cùng tổ dịch vụ”. Nghe một người phụ nữ quanh năm lấy công việc làm rẫy và bốc vác bận bịu khi đêm về cũng tò mò, chúng tôi đi theo.
Váy dzèng dịu hiền trong đêm trăng, dập dìu bên ngọn lửa ấm. Khách du lịch ngỡ ngàng với những vũ điệu của hồn nhiên. Tôi ngồi trên nhà sàn ngắm trăng, trăng sáng cõi trăng, trăng vằng vặc, còn tâm tưởng tôi dò dẫm từng bậc thang hy vọng. Tôi ở lại với bản làng, đi với đêm đặc quánh, lâu lâu ngước theo ảo ảnh. Đêm tĩnh như trăng ở A Lưới đã nói tôi hay ríu ran nghe rõ hơn trong sự biết, biết im lặng.
Đêm ấy, ngủ trong căn nhà gỗ lọt khe gió, tiếng ếch, ệnh oạng, tiếng vũ nữ, tiếng dế tiu tiu rền khắp giấc mơ.
H.H.P
(TCSH402/08-2022)
PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.