ĐÀO DUY ANH
Ảnh: internet
I
Nhặt bao tháng tám chưa thể xâu thành chuỗi ánh sáng
nghe giảng đạo một vầng trăng
ơi! Những sợi sáng của trăng gầy chỉ làm rõ nét thêm nhiều vết sẹo
để nhìn vào run rẩy...
trổ nhánh lưu vong vào vũ trụ trăng
đêm 14 cấn thai rơi vào chân mây tối
khi trăng đã chọn 16 để tròn
đời cỏ rả
ngồi mặc niệm cho cái chết yểu non
tôi như người biên chép thiên văn mất viễn vọng
nhập liệm vào quầng tán - Nguyệt tận
dấu mùi hương cũ vừa phai..
II
Nỗi hờn ghen xoay vũ khúc cuối cùng
cặn lắng tôi
sao ghép mảnh vỡ tôi vào Đền Thiêng phía trước
còn bao Đền Thiêng - còn Thiêng?
tôi bản photo mực đã nhòe rồi
cơn trối trăn của linh hồn ngần ngại
nhận ra nỗi mơ hồ của một di căn
ngỡ ngàng tình yêu không tái sinh tự động
không tái sinh trên khuôn mặt người đàn ông khác
tôi thành khách trọ ngủ qua đêm trần thế nhọc nhằn
tiếng thở dài làm ân điển
lạ hoắc mình là ai?
tôi viên sỏi vừa ném xuống mặt hồ lao xao sóng
ai nghe tiếng vọng từ hang động
một hòn bản mệnh vừa từ bỏ thế gian...
III
Đêm còn trăng?
ngày không xiêm áo
thèm hiến dâng không cần Thần linh nếm thử
nếu một ngày mai...
có về?
xin rón rén vào lời ước cũ
bụi phận người theo mùa thu quẩy gánh
về đâu?
dịu dàng ơi! Những vòng quay tháng tám
lẩm cẩm gục đầu
mùa thu khô mang từng bó củi
cháy sém nôi đời
nổi nênh từng buổi sống
trên hành trình chưa có ngày mai...
tôi mang ngôi nhà nguyện đi tìm sự thật
đứng khóc bên ngoài... đúng / sai
có Thần linh nào phán quyết
IV
Cơn điên Đền thiêng vang dộng những hồi chuông..
giấu che sự bi thảm phía vầng trăng khuyết
một nửa vòng tròn huyễn hoặc
lặng im
đỉnh cô đơn ảo cảm là bóng tối
trước vòm mắt buôn buốt
vân vê một hạnh phúc buồn...!
(SH285/11-12)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi