O.Henry là một nhà văn Mỹ đầy “sinh lực văn chương”, viết truyện ngắn nhiều tới mức người ta phải lập danh sách các truyện của ông theo thứ tự ABC để tra cứu cho tiện. Ông chuyên viết về sinh hoạt của những con người bình thường ở Thành phố New York. Ông là bậc thầy về lối kết cục bất ngờ gây ngạc nhiên: cốt truyện cứ phát triển, thắt dần, thắt dần rồi đột nhiên chuyển sang một tình huống mỉa mai, châm biếm, trùng khớp hoặc kết thúc đột ngột đến không ngờ. Đó chính là nghệ thuật độc đáo điển hình của O.Henry, và là một trong những nguyên nhân khiến người đọc phải nhớ mãi, phải suy ngẫm.
O. HENRY
Khi người ta yêu
Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả.
Đó chính là giả thuyết của chúng tôi. Câu chuyện này sẽ rút ra một kết luận từ đó, đồng thời cho thấy rằng giả thuyết này là không đúng. Đây là một điểm mới trong Logic và là một tiểu xảo điêu luyện trong nghệ thuật kể chuyện, một nghệ thuật còn lâu đời hơn cả Vạn lý trường thành ở Trung Hoa vậy.
Joe Larrabee ra đời trong căn nhà bằng gỗ sồi ở miền Trung Tây, nước Mỹ với nhịp đập của một tài năng thiên bẩm về nghệ thuật tạo hình. Lên 6, chú đã vẽ được bức tranh máy nước công cộng với một người vội vã bước qua. Tác phẩm của họa sĩ tí hon này đã được đóng khung, treo trong tủ kính của một cửa hàng dược phẩm bên cạnh một bông lúa mì có những dãy hạt không đều nhau. Hai mươi tuổi, anh rời quê lên New York, với chiếc nơ hai dải thắt trên cổ áo, và tất cả vốn liếng được gói ghém thành một bọc, còn thắt chặt hơn.
Delia Caruthers chơi dương cầm tại một ngôi làng trồng toàn thông ở miền Nam nước Mỹ, triển vọng tới mức họ hàng đã gom góp tiền bạc giúp cô lên miền “Bắc” để “ăn học thành tài”. Người ta chưa biết dung nhan của cô, nhưng đó chính là câu chuyện mà chúng tôi muốn kể cho các bạn nghe.
Joe và Delia gặp nhau tại một xưởng họa nơi một số sinh viên mỹ thuật và âm nhạc thường gặp gỡ nhau để bàn luận về hội họa ánh sáng và bóng tối, về Wagner, về âm nhạc, các tác phẩm của Rembrandt, các tuyệt tác, Waldteufel, giấy dán tường, Chopin và Oolong.
Joe và Delia đem lòng yêu nhau và cưới nhau trong một thời gian ngắn, vì như đã nói ở trên, khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả.
Anh chị Larrabee bắt đầu sống chung trong một căn hộ. Đó là một căn hộ đơn độc, y như cung La thăng bên tay trái cuối bàn phím dương cầm vậy. Nhưng họ vẫn hạnh phúc vì họ có nghệ thuật và họ có nhau. Và lời khuyên của tôi cho anh chàng thanh niên trẻ tuổi này là hãy bán tất cả những gì mình có, rồi đem cho người quản gia khốn khổ kia, để đổi lấy đặc ân được sống trong một căn hộ với nghệ thuật của anh và với Delia của anh.
Những người sống trong căn hộ sẽ xác nhận câu châm ngôn của tôi: hạnh phúc của họ là hạnh phúc duy nhất chân chính! Thương nhau trái ấu cũng tròn, trái lim cũng ngọt, bồ hòn cũng ngon, vì thế ngôi nhà của cặp uyên ương hạnh phúc không bao giờ quá chật chội cả - người ta có thể ngả cái tủ áo xuống làm cái bàn billard, biến cái mặt lò sưởi thành dụng cụ tập bơi thuyền, cái bàn viết thành một buồng ngủ dự trữ, cái giá để chậu rửa mặt thành chiếc dương cầm đứng, quây bốn bức tường lại với nhau, nếu họ muốn, với chàng và Delia của chàng vui vầy trong đó… Còn nếu không thì ngôi nhà phải thật rộng, thật dài, người ta vào qua eo biển Golden Gate, treo mũ ở mũi Hatteras, áo choàng ở mũi Cape Horn và bước ra qua bán đảo Labrador.
Joe học vẽ trong lớp của Thầy Magister vĩ đại - bạn biết tên tuổi của ông ta rồi đấy. Học phí của ông cao giá; bài học của ông nhẹ nhàng - những điểm nhấn mạnh của ông đã đem lại tiếng tăm cho ông. Còn Delia theo học dương cầm dưới sự hướng dẫn của Ông Rosenstock - bạn cũng đã biết tiếng tăm của ông ấy là người chuyên làm loạn bộ bàn phím của dương cầm.
Cặp vợ chồng trẻ sống vô cùng hạnh phúc, chừng nào họ còn tiền. Mọi cặp vợ chồng đều thế cả - nhưng tôi sẽ không cao giọng yếm thế nữa. Mục đích của họ được đề ra rất rõ ràng. Joe phải phấn đấu để nhanh chóng có khả năng sáng tác được tranh tới mức các quý ông lịch sự, với hai bên tóc mai mong mỏng nhưng ví tiền lại dày dày, phải tới túc trực tại căn hộ của anh, để có được đặc ân mua tranh của anh. Còn Delia thì phải điêu luyện về Âm nhạc tới mức có thể xem thường nó, để khi thấy các ghế hoặc các lô xem hòa nhạc trong nhà hát không bán được vé, nàng phải biết lập tức cảm thấy đau họng, ăn tôm hùm trong một phòng ăn riêng, và không chịu lên sân khấu biểu diễn nữa.
Nhưng theo ý kiến của riêng tôi, tuyệt nhất vẫn là cuộc sống gia đình trong căn hộ bé nhỏ xinh xinh ấy - những cuộc trò chuyện ríu rít, líu lo, sau một ngày đi học về; những bữa ăn tối ấm cúng, và những bữa điểm tâm nhẹ nhàng, tươi mát; sự trao đổi cho nhau những hoài bão - những hoài bão được hòa quyện lẫn nhau, của người này quấn quít với người kia, không sao kể xiết; sự giúp đỡ cùng sự khích lệ lẫn nhau; và – xin bỏ qua cho sự vụng về chất phác của tôi nhé - cả món ô-liu nhồi thịt và bánh sandwich kẹp phó-mát vào lúc 11 giờ tối nữa chứ.
Nhưng được một thời gian thì Nghệ thuật bắt đầu xuống dốc. Sự đời đôi khi vẫn thế, cho dù đôi khi người bẻ ghi xe lửa không ra hiệu như vậy. Mọi thứ đều ra đi mà chẳng có gì trở lại, như người đời vẫn nói. Tiền không đủ để trả học phí cho Thầy Magister và Ông Rosenstock. Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả. Vì thế, Delia cho biết nàng sẽ dạy nhạc, để cho nồi xúp có thể tiếp tục reo sôi trên bàn ăn.
Đã hai, ba ngày nay, nàng đi săn lùng học sinh muốn học nhạc. Một buổi tối nàng trở về nhà, mặt mày hớn hở.
“Anh Joe yêu quý,” nàng nói, hân hoan, vui sướng, “em đã tìm được một học sinh rồi. Ôi, mà là người đáng yêu nhất! Đó là con gái Tướng A.B. Pinkney, trên Phố 71. Chà, ngôi nhà của họ mới đẹp làm sao, Joe ạ, giá mà anh được thấy cái cửa trước của nó nhỉ! Mỹ thuật Byzantine, em tin chắc thể nào anh cũng sẽ thốt lên như vậy. Còn nội thất bên trong nữa chứ! Ôi, anh Joe ạ, trước đây em chưa hề được thấy những thứ đó bao giờ”.
“Học trò của em là con gái Đại tướng, cô bé tên là Clementina. Em yêu cô bé kinh khủng. Đó là một cô bé tinh tế - bao giờ cũng mặc toàn trắng; còn phong cách thì vô cùng dịu dàng, giản dị! Cô bé mới 18 tuổi. Em sẽ dạy 3 buổi một tuần; và anh thử nghĩ xem, anh Joe! Chỉ có 5 đô-la một buổi. Thôi cũng không sao; vì khi em kiếm được thêm hai hay ba học sinh nữa, thì em lại tiếp tục đi học Ông Rosenstock. Bây giờ thì anh đừng cau mày, ưu tư nữa nhé, anh yêu, và ta cùng thưởng thức một bữa tối thật ngon nào”.
“Dele, đối với em thế là ổn rồi,” Joe vừa nói vừa ra sức mở hộp đậu Hà Lan bằng một con dao phay và một chiếc rìu nhỏ, “thế còn anh thì thế nào? Em nghĩ rằng anh sẽ cam tâm để cho em lam lũ, bươn chải kiếm tiền, trong khi anh cứ rong chơi trên các nẻo đường phù phiếm của nghệ thuật được chăng? Không đời nào nhé! Anh thấy là anh có thể bán báo, hoặc đi lát đường, cũng đem về đôi ba đồng chứ.”
Delia chạy đến ôm choàng lấy cổ Joe.
“Ôi, anh Joe yêu quý của em, anh ngốc lắm! Anh phải tiếp tục học vẽ. Phải chăng em bỏ học nhạc và đi làm, chỉ vì một vấn đề gì đó khác ư? Trong khi em dạy là em vẫn học đấy chứ. Chẳng lúc nào em rời âm nhạc của em cả. Với 15 đô-la một tuần, chúng ta vẫn có thể sống ung dung như một ông hoàng. Anh không được nghĩ đến chuyện bỏ học Thầy Magister đấy nhé!”
“Thôi được,” vừa nói Joe vừa giơ tay với lấy chiếc đĩa sâu để cơi rau. “Nhưng anh không thích để em đi dạy học tí nào. Đó không phải là Nghệ thuật. Mà em sinh ra không phải là để làm những chuyện đó.”
“Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả.” Delia đáp.
“Thầy Magister khen nức khen nở bầu trời trong bức phác họa anh vẽ ở công viên,” Joe nói. “Và Tinkle đã đồng ý để anh treo hai bức trong số đó tại cửa hiệu của ông ấy rồi. Có thể anh sẽ bán được một bức nếu một gã giàu có, ngốc nghếch nào đó để mắt tới chúng.”
“Em đánh cuộc là anh sẽ bán được tranh,” Delia nói, giọng ngọt ngào. “Bây giờ thì ta hãy cảm ơn Tướng Pinkney và món bê thui này đã.”
Trong cả tuần sau đó, cặp vợ chồng Larrabees đều ăn sáng rất sớm. Joe thì rất say sưa về mấy bức phác họa cảnh bình minh mà anh vẽ trong Công viên Trung tâm, còn Delia chuẩn bị thức ăn cho Joe một cách nâng niu, chiều chuộng, cùng những lời tán dương, khen ngợi và những nụ hôn nồng nàn trước khi ra khỏi nhà vào lúc 7 giờ sáng. Nghệ thuật quả là một thiếu nữ duyên dáng, quyến rũ biết chừng nào! Còn Joe thì nhiều khi 7 giờ tối mới về tới nhà.
Cuối tuần, Delia kiêu hãnh một cách duyên dáng nhưng có vẻ uể oải, mệt nhoài, đặt một cách đắc thắng 3 tờ 5 đô-la lên chiếc bàn rộng 8x10 inches kê giữa căn phòng khách rộng 8x10 feet.
“Đôi khi,” Delia nói, giọng hơi mệt mỏi, “Clementina làm cho em phát mệt. Em ngờ rằng cô bé không chịu thực hành, em cứ phải nhắc đi nhắc lại một vấn đề không biết bao nhiêu lần. Và rồi lúc nào cô bé cũng mặc toàn đồ trắng, trông thật đơn điệu. Nhưng Tướng Pinkney thì quả là một ông già đáng mến thật. Ước gì anh được biết ông ấy nhỉ, anh Joe ạ. Thỉnh thoảng ông ấy có vào khi em đang đàn với Clementina – ông ấy góa vợ, anh biết đấy – chuyên đứng đó, tay vuốt chòm râu dê. “Tình hình nốt móc đôi và nốt móc ba tiến triển thế nào rồi, cô giáo?”, bao giờ ông ấy cũng hỏi như vậy.
“Ước gì anh được thấy ván ốp của căn phòng khách nhà ấy nhỉ, anh Joe ạ! Và cả những tấm thảm lông cừu Astrakhan nữa chứ. Mà Clementina có cái lối ho rất ngộ. Em hy vọng cô bé khỏe hơn cái bề ngoài còm nhom của cô ấy. Ồ, quả là em đã cảm thấy gắn bó với cô bé ấy rồi. Cô bé dịu dàng, và đài các biết nhường nào. Em trai của Tướng Pinkney đã từng làm Công sứ ở Bolivia đấy”.
Thế rồi đến lượt Joe, với dáng vẻ của một Monte Cristo, anh rút ra một tờ mười đồng, một tờ năm, một tờ hai, và tờ một đồng, rồi đặt chúng bên cạnh những đồng tiền do Delia kiếm được.
“Anh bán được bức tranh màu nước vẽ đài kỷ niệm cho một ông từ Peoria tới,” Joe tuyên bố, với dáng vẻ áp đảo.
“Đừng có rỡn với em nhá,” Delia nói, “chẳng có chuyện từ Peoria gì hết! ”
“Lặn lội từ Peoria tới thật đấy. Ước gì em được gặp ông ấy nhỉ, Dele ạ. Ông ta là một người to béo, quàng một chiếc khăn len to đùng, miệng ngậm một cái tăm xỉa răng bằng lông chim. Ông ta đã thấy bức phác họa tại cửa hiệu của Tinkle, lúc đầu ông ấy tưởng đó là một cái cối xay gió, thế nhưng ông ấy vui tính thật, mua luôn. Ông ấy còn đặt ngay một bức nữa - một bức phác họa sơn dầu vẽ Ga xe lửa Lackawanna - để ông ấy mang theo về Peoria. Những bài học âm nhạc! Ôi anh cho rằng Nghệ thuật vẫn còn lẩn khuất trong những bài học âm nhạc đó”.
“Em vui biết chừng nào vì anh vẫn tiếp tục học vẽ được,” Delia hồ hởi nói. “Anh nhất định phải thắng, anh yêu ạ. Ba mươi ba đô-la! Trước đây, chúng ta chưa bao giờ có nhiều tiền đến thế để mà xài. Tối nay, chúng ta phải thưởng thức món sò huyết mới được”.
“Và cả món thịt thăn nõn om nấm nữa chứ”, Joe nói. “Em này, cái dĩa lấy ô-liu của nhà mình đâu rồi, em nhỉ?”.
Vào buổi tối thứ bảy sau, Joe về tới nhà trước tiên. Anh trải rộng 18 đô-la anh kiếm được lên trên bàn phòng khách, rồi rửa sạch hai bàn tay dính đầy sơn sẫm màu.
Nửa giờ sau, Delia về tới nhà, bàn tay phải bị buộc băng lung tung thành một bọc không ra hình thù gì.
“Thế này là thế nào?” Joe thắc mắc sau câu chào hỏi như thường lệ. Delia cười, nhưng không vui lắm.
“Clementina,” Delia giải thích, “cứ khăng khăng đòi ăn món thỏ xứ Wales sau khi học đàn xong. Cô bé quả là một cô gái kỳ quặc, lạ lùng. Đòi ăn món thỏ xứ Wales vào lúc 5 giờ chiều. Ngài Đại tướng cũng có mặt tại đó. Giá anh được thấy ông ấy chạy đi lấy cái lò hầm, anh Joe ạ, cứ như thể không có người giúp việc trong nhà vậy. Em thông cảm Clementina không được khoẻ lắm; cô bé vụng về biết chừng nào. Trong lúc múc món thỏ hầm, cô ấy đã đánh đổ nước canh sôi sùng sục lên tay và cổ tay em. Đau kinh khủng, anh Joe ạ. Cô bé rất lấy làm tiếc! Còn Tướng Pinkney nữa chứ! – Anh Joe ạ, ông già gần như hóa điên. Ông chạy vội xuống dưới nhà và sai một người nào đó - họ bảo đó là một người công nhân lò sưởi hoặc một người làm gì đó đang ở dưới tầng hầm - chạy ra hiệu thuốc để mua dầu và các thứ để băng cho em. Bây giờ em không còn cảm thấy đau đến thế nữa.”
“Thế đây là cái gì?” Joe vừa hỏi vừa nhẹ nhàng cầm lấy bàn tay rồi rút mấy sợi tơ trắng dưới những lần băng gạc.
“Đó là một thứ mềm làm đệm, có tẩm dầu, “Delia nói. “Ồ, anh Joe, anh lại bán được thêm một bức nữa rồi đấy à?” Nàng đã nhìn thấy tiền để trên bàn.
“Sao cơ?” Joe nói; “cứ hỏi ông già ở Peoria thì biết. Hôm nay, ông ta đã lấy bức ga xe lửa rồi; ông ta còn không chắc lắm nhưng ông ấy nghĩ là ổng muốn có một bức phong cảnh công viên và một bức cảnh Vịnh Hudson. Mà chiều nay em bị bỏng tay lúc mấy giờ nhỉ, Dele?”.
“Vào quãng năm giờ gì đó,” Delia nói, giọng kể lể, than vãn. “Cái bàn là – à em muốn nói là lúc đó món thỏ hầm vừa mới bắc ra khỏi lò. Giá mà anh được thấy Tướng Pinkney nhỉ, anh Joe ạ, khi đó…”.
“Em hãy ngồi xuống đây một lát đã, Dele,” Joe nói. Anh dìu Delia tới chiếc sofa, ngồi xuống cạnh vợ rồi quàng tay qua vai nàng. “Anh hỏi thực em nhé, hai tuần qua em làm gì hả Dele?” anh hỏi.
Delia lặng thinh trong giây lát, cặp mắt chan chứa một tình yêu nồng nàn và một thái độ cứng cỏi, kiên cường, đoạn lẩm nhẩm đôi lời một cách mơ hồ về Tướng Pinkney; nhưng cuối cùng nàng cũng cúi đầu nói ra sự thật, nước mắt đầm đìa, lã chã tuôn rơi.
“Thực ra em chẳng kiếm được học sinh nào cả” Delia thú thật. “Nhưng em không chịu được cảnh phải để anh bỏ học; em đã xin được một chỗ làm, chuyên là áo sơ-mi, tại hiệu giặt là to lớn ấy ở Phố 24. Em nghĩ em đã phịa chuyện về Tướng Pinkney và Clementina rất cừ, phải không, anh Joe? Và sau khi một cô gái trong xưởng vô ý chạm chiếc bàn là nóng vào tay em chiều nay, suốt trên đường về nhà, em đã phải nghĩ cách bịa câu chuyện về món xúp thỏ xứ Wales. Anh không giận em chứ, anh yêu, Joe? Và nếu như em không kiếm được việc làm thì rất có thể anh cũng chẳng bán được các bức họa của anh cho ông già Peoria ấy.”
“Ông ta chẳng phải từ Peoria tới …” Joe chậm rãi nói.
“Mà ông ta từ đâu tới cũng chẳng thành vấn đề. Anh thông minh biết chừng nào, anh Joe ạ - bây giờ thì hôn em đi nào, anh Joe – mà điều gì đã khiến anh nghi ngờ rằng em không dạy nhạc cho Clementina nào?”
“Anh chẳng nghi ngờ gì cả”, Joe nói, “cho tới tận tối hôm nay. Chiều nay, anh cũng không nghi ngờ gì, anh chỉ gửi thứ bông xơ và dầu từ phòng máy lên cho một cô gái trên gác tay bị bỏng bàn là. Hai tuần nay, anh vẫn cho chạy máy trong xưởng giặt là đó mà.”
“Thế thì anh đã không …”, Delia thốt lên.
“Cả Ông già Peoria mua tranh,” Joe nói, “lẫn Tướng Pinkney đều là những sáng tác của cùng một thứ Nghệ thuật – nhưng người ta không thể gọi loại hình nghệ thuật này là hội họa hay âm nhạc được!”
Thế rồi cả hai ôm nhau cười ngất, và Joe lại nói:
“Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là…”
Đến đây Delia đã đặt tay lên môi anh không cho anh nói tiếp. “Không”, Delia nói, “chỉ cần nói Khi người ta yêu thế thôi”.
Điền Thanh (dịch từ nguyên bản tiếng Anh nhan đề “A Service of Love”) (271/09-11)
Hôm ấy một mình Đức Phật đi dạo ven bờ đầm trên Niết bàn.
Cả đầm toàn là sen trắng trong như ngọc, và nhị sen vàng tỏa ra xung quanh một mùi thơm ngọt, ngạt ngào.
L.T.S: LANGSTON HUGHES (1902 - 1967), nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch và dịch giả người Mỹ da đen, sinh ở Joplin, bang Missouri. Ông đã xuất bản 35 tác phẩm. Thơ của ông đã được dịch sang tiếng Việt. Những tác phẩm của ông phần lớn tập trung chủ đề đấu tranh cho quyền bình đẳng giữa người da đen và da trắng tại nước Mỹ. Truyện sau đây dịch trong tập truyện "The ways of white Folks".
Hình ảnh rồng Việt Nam từ xa xưa đã sớm đi vào nghệ thuật với nhiều loại hình khác nhau. Trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc, nhiều công trình điêu khắc lấy con rồng làm đề tài đã trở thành những tác phẩm có giá trị văn hóa, trong đó không ít công trình điêu khắc đá được xem như là những tác phẩm mang dấu ấn phong cách nghệ thuật của một thời kỳ.
Nhà văn Phillip Van Doren Stern sinh ra tại Wyalusing, bang Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. The Greatest Gift là truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông. Phillip Van Doren Stern đã từng gửi câu truyện này đi nhiều báo và tạp chí nhưng không nơi nào nhận đăng. Cuối cùng ông cho in truyện lên 200 tấm thiệp năm mới và phát cho bạn bè.
LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.
LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.
L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.
Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.
William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.
LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.
Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.
LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...
L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.
L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.
LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.
LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.
PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.
An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.
VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.