Khi người ta yêu

10:32 26/09/2011
LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.

Văn hào O. Henry - Ảnh: wikipedia

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if !mso]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

O.Henry là một nhà văn Mỹ đầy “sinh lực văn chương”, viết truyện ngắn nhiều tới mức người ta phải lập danh sách các truyện của ông theo thứ tự ABC để tra cứu cho tiện. Ông chuyên viết về sinh hoạt của những con người bình thường ở Thành phố New York. Ông là bậc thầy về lối kết cục bất ngờ gây ngạc nhiên: cốt truyện cứ phát triển, thắt dần, thắt dần rồi đột nhiên chuyển sang một tình huống mỉa mai, châm biếm, trùng khớp hoặc kết thúc đột ngột đến không ngờ. Đó chính là nghệ thuật độc đáo điển hình của O.Henry, và là một trong những nguyên nhân khiến người đọc phải nhớ mãi, phải suy ngẫm.



O. HENRY


Khi người ta yêu


Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả.

Đó chính là giả thuyết của chúng tôi. Câu chuyện này sẽ rút ra một kết luận từ đó, đồng thời cho thấy rằng giả thuyết này là không đúng. Đây là một điểm mới trong Logic và là một tiểu xảo điêu luyện trong nghệ thuật kể chuyện, một nghệ thuật còn lâu đời hơn cả Vạn lý trường thành ở Trung Hoa vậy.

Joe Larrabee ra đời trong căn nhà bằng gỗ sồi ở miền Trung Tây, nước Mỹ với nhịp đập của một tài năng thiên bẩm về nghệ thuật tạo hình. Lên 6, chú đã vẽ được bức tranh máy nước công cộng với một người vội vã bước qua. Tác phẩm của họa sĩ tí hon này đã được đóng khung, treo trong tủ kính của một cửa hàng dược phẩm bên cạnh một bông lúa mì có những dãy hạt không đều nhau. Hai mươi tuổi, anh rời quê lên New York, với chiếc nơ hai dải thắt trên cổ áo, và tất cả vốn liếng được gói ghém thành một bọc, còn thắt chặt hơn.

Delia Caruthers chơi dương cầm tại một ngôi làng trồng toàn thông ở miền Nam nước Mỹ, triển vọng tới mức họ hàng đã gom góp tiền bạc giúp cô lên miền “Bắc” để “ăn học thành tài”. Người ta chưa biết dung nhan của cô, nhưng đó chính là câu chuyện mà chúng tôi muốn kể cho các bạn nghe.

Joe và Delia gặp nhau tại một xưởng họa nơi một số sinh viên mỹ thuật và âm nhạc thường gặp gỡ nhau để bàn luận về hội họa ánh sáng và bóng tối, về Wagner, về âm nhạc, các tác phẩm của Rembrandt, các tuyệt tác, Waldteufel, giấy dán tường, Chopin và Oolong.

Joe và Delia đem lòng yêu nhau và cưới nhau trong một thời gian ngắn, vì như đã nói ở trên, khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả.

Anh chị Larrabee bắt đầu sống chung trong một căn hộ. Đó là một căn hộ đơn độc, y như cung La thăng bên tay trái cuối bàn phím dương cầm vậy. Nhưng họ vẫn hạnh phúc vì họ có nghệ thuật và họ có nhau. Và lời khuyên của tôi cho anh chàng thanh niên trẻ tuổi này là hãy bán tất cả những gì mình có, rồi đem cho người quản gia khốn khổ kia, để đổi lấy đặc ân được sống trong một căn hộ với nghệ thuật của anh và với Delia của anh.

Những người sống trong căn hộ sẽ xác nhận câu châm ngôn của tôi: hạnh phúc của họ là hạnh phúc duy nhất chân chính! Thương nhau trái ấu cũng tròn, trái lim cũng ngọt, bồ hòn cũng ngon, vì thế ngôi nhà của cặp uyên ương hạnh phúc không bao giờ quá chật chội cả - người ta có thể ngả cái tủ áo xuống làm cái bàn billard, biến cái mặt lò sưởi thành dụng cụ tập bơi thuyền, cái bàn viết thành một buồng ngủ dự trữ, cái giá để chậu rửa mặt thành chiếc dương cầm đứng, quây bốn bức tường lại với nhau, nếu họ muốn, với chàng và Delia của chàng vui vầy trong đó… Còn nếu không thì ngôi nhà phải thật rộng, thật dài, người ta vào qua eo biển Golden Gate, treo mũ ở mũi Hatteras, áo choàng ở mũi Cape Horn và bước ra qua bán đảo Labrador.

Joe học vẽ trong lớp của Thầy Magister vĩ đại - bạn biết tên tuổi của ông ta rồi đấy. Học phí của ông cao giá; bài học của ông nhẹ nhàng - những điểm nhấn mạnh của ông đã đem lại tiếng tăm cho ông. Còn Delia theo học dương cầm dưới sự hướng dẫn của Ông Rosenstock - bạn cũng đã biết tiếng tăm của ông ấy là người chuyên làm loạn bộ bàn phím của dương cầm.

Cặp vợ chồng trẻ sống vô cùng hạnh phúc, chừng nào họ còn tiền. Mọi cặp vợ chồng đều thế cả - nhưng tôi sẽ không cao giọng yếm thế nữa. Mục đích của họ được đề ra rất rõ ràng. Joe phải phấn đấu để nhanh chóng có khả năng sáng tác được tranh tới mức các quý ông lịch sự, với hai bên tóc mai mong mỏng nhưng ví tiền lại dày dày, phải tới túc trực tại căn hộ của anh, để có được đặc ân mua tranh của anh. Còn Delia thì phải điêu luyện về Âm nhạc tới mức có thể xem thường nó, để khi thấy các ghế hoặc các lô xem hòa nhạc trong nhà hát không bán được vé, nàng phải biết lập tức cảm thấy đau họng, ăn tôm hùm trong một phòng ăn riêng, và không chịu lên sân khấu biểu diễn nữa.   

Nhưng theo ý kiến của riêng tôi, tuyệt nhất vẫn là cuộc sống gia đình trong căn hộ bé nhỏ xinh xinh ấy - những cuộc trò chuyện ríu rít, líu lo, sau một ngày đi học về; những bữa ăn tối ấm cúng, và những bữa điểm tâm nhẹ nhàng, tươi mát; sự trao đổi cho nhau những hoài bão - những hoài bão được hòa quyện lẫn nhau, của người này quấn quít với người kia, không sao kể xiết; sự giúp đỡ cùng sự khích lệ lẫn nhau; và – xin bỏ qua cho sự vụng về chất phác của tôi nhé - cả món ô-liu nhồi thịt và bánh sandwich kẹp phó-mát vào lúc 11 giờ tối nữa chứ. 

Nhưng được một thời gian thì Nghệ thuật bắt đầu xuống dốc. Sự đời đôi khi vẫn thế, cho dù đôi khi người bẻ ghi xe lửa không ra hiệu như vậy. Mọi thứ đều ra đi mà chẳng có gì trở lại, như người đời vẫn nói. Tiền không đủ để trả học phí cho Thầy Magister và Ông Rosenstock. Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả. Vì thế, Delia cho biết nàng sẽ dạy nhạc, để cho nồi xúp có thể tiếp tục reo sôi trên bàn ăn.

Đã hai, ba ngày nay, nàng đi săn lùng học sinh muốn học nhạc. Một buổi tối nàng trở về nhà, mặt mày hớn hở.

“Anh Joe yêu quý,” nàng nói, hân hoan, vui sướng, “em đã tìm được một học sinh rồi. Ôi, mà là người đáng yêu nhất! Đó là con gái Tướng A.B. Pinkney, trên Phố 71. Chà, ngôi nhà của họ mới đẹp làm sao, Joe ạ, giá mà anh được thấy cái cửa trước của nó nhỉ! Mỹ thuật Byzantine, em tin chắc thể nào anh cũng sẽ thốt lên như vậy. Còn nội thất bên trong nữa chứ! Ôi, anh Joe ạ, trước đây em chưa hề được thấy những thứ đó bao giờ”.

“Học trò của em là con gái Đại tướng, cô bé tên là Clementina. Em yêu cô bé kinh khủng. Đó là một cô bé tinh tế - bao giờ cũng mặc toàn trắng; còn phong cách thì vô cùng dịu dàng, giản dị! Cô bé mới 18 tuổi. Em sẽ dạy 3 buổi một tuần; và anh thử nghĩ xem, anh Joe! Chỉ có 5 đô-la một buổi. Thôi cũng không sao; vì khi em kiếm được thêm hai hay ba học sinh nữa, thì em lại tiếp tục đi học Ông Rosenstock. Bây giờ thì anh đừng cau mày, ưu tư nữa nhé, anh yêu, và ta cùng thưởng thức một bữa tối thật ngon nào”.  

“Dele, đối với em thế là ổn rồi,” Joe vừa nói vừa ra sức mở hộp đậu Hà Lan bằng một con dao phay và một chiếc rìu nhỏ, “thế còn anh thì thế nào? Em nghĩ rằng anh sẽ cam tâm để cho em lam lũ, bươn chải kiếm tiền, trong khi anh cứ rong chơi trên các nẻo đường phù phiếm của nghệ thuật được chăng? Không đời nào nhé! Anh thấy là anh có thể bán báo, hoặc đi lát đường, cũng đem về đôi ba đồng chứ.”

Delia chạy đến ôm choàng lấy cổ Joe.

“Ôi, anh Joe yêu quý của em, anh ngốc lắm! Anh phải tiếp tục học vẽ. Phải chăng em bỏ học nhạc và đi làm, chỉ vì một vấn đề gì đó khác ư? Trong khi em dạy là em vẫn học đấy chứ. Chẳng lúc nào em rời âm nhạc của em cả. Với 15 đô-la một tuần, chúng ta vẫn có thể sống ung dung như một ông hoàng. Anh không được nghĩ đến chuyện bỏ học Thầy Magister đấy nhé!”

“Thôi được,” vừa nói Joe vừa giơ tay với lấy chiếc đĩa sâu để cơi rau. “Nhưng anh không thích để em đi dạy học tí nào. Đó không phải là Nghệ thuật. Mà em sinh ra không phải là để làm những chuyện đó.”

“Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả.” Delia đáp.

“Thầy Magister khen nức khen nở bầu trời trong bức phác họa anh vẽ ở công viên,” Joe nói. “Và Tinkle đã đồng ý để anh treo hai bức trong số đó tại cửa hiệu của ông ấy rồi. Có thể anh sẽ bán được một bức nếu một gã giàu có, ngốc nghếch nào đó để mắt tới chúng.”

“Em đánh cuộc là anh sẽ bán được tranh,” Delia nói, giọng ngọt ngào. “Bây giờ thì ta hãy cảm ơn Tướng Pinkney và món bê thui này đã.”

Trong cả tuần sau đó, cặp vợ chồng Larrabees đều ăn sáng rất sớm. Joe thì rất say sưa về mấy bức phác họa cảnh bình minh mà anh vẽ trong Công viên Trung tâm, còn Delia chuẩn bị thức ăn cho Joe một cách nâng niu, chiều chuộng, cùng những lời tán dương, khen ngợi và những nụ hôn nồng nàn trước khi ra khỏi nhà vào lúc 7 giờ sáng. Nghệ thuật quả là một thiếu nữ duyên dáng, quyến rũ biết chừng nào! Còn Joe thì nhiều khi 7 giờ tối mới về tới nhà.

Cuối tuần, Delia kiêu hãnh một cách duyên dáng nhưng có vẻ uể oải, mệt nhoài, đặt một cách đắc thắng 3 tờ 5 đô-la lên chiếc bàn rộng 8x10 inches kê giữa căn phòng khách rộng 8x10 feet.

“Đôi khi,” Delia nói, giọng hơi mệt mỏi, “Clementina làm cho em phát mệt. Em ngờ rằng cô bé không chịu thực hành, em cứ phải nhắc đi nhắc lại một vấn đề không biết bao nhiêu lần. Và rồi lúc nào cô bé cũng mặc toàn đồ trắng, trông thật đơn điệu. Nhưng Tướng Pinkney thì quả là một ông già đáng mến thật. Ước gì anh được biết ông ấy nhỉ, anh Joe ạ. Thỉnh thoảng ông ấy có vào khi em đang đàn với Clementina – ông ấy góa vợ, anh biết đấy – chuyên đứng đó, tay vuốt chòm râu dê. “Tình hình nốt móc đôi và nốt móc ba tiến triển thế nào rồi, cô giáo?”, bao giờ ông ấy cũng hỏi như vậy.

“Ước gì anh được thấy ván ốp của căn phòng khách nhà ấy nhỉ, anh Joe ạ! Và cả những tấm thảm lông cừu Astrakhan nữa chứ. Mà Clementina có cái lối ho rất ngộ. Em hy vọng cô bé khỏe hơn cái bề ngoài còm nhom của cô ấy. Ồ, quả là em đã cảm thấy gắn bó với cô bé ấy rồi. Cô bé dịu dàng, và đài các biết nhường nào. Em trai của Tướng Pinkney đã từng làm Công sứ ở Bolivia đấy”.

Thế rồi đến lượt Joe, với dáng vẻ của một Monte Cristo, anh rút ra một tờ mười đồng, một tờ năm, một tờ hai, và tờ một đồng, rồi đặt chúng bên cạnh những đồng tiền do Delia kiếm được.

“Anh bán được bức tranh màu nước vẽ đài kỷ niệm cho một ông từ Peoria tới,” Joe tuyên bố, với dáng vẻ áp đảo.

“Đừng có rỡn với em nhá,” Delia nói, “chẳng có chuyện từ Peoria gì hết! ”

“Lặn lội từ Peoria tới thật đấy. Ước gì em được gặp ông ấy nhỉ, Dele ạ. Ông ta là một người to béo, quàng một chiếc khăn len to đùng, miệng ngậm một cái tăm xỉa răng bằng lông chim. Ông ta đã thấy bức phác họa tại cửa hiệu của Tinkle, lúc đầu ông ấy tưởng đó là một cái cối xay gió, thế nhưng ông ấy vui tính thật, mua luôn. Ông ấy còn đặt ngay một bức nữa - một bức phác họa sơn dầu vẽ Ga xe lửa Lackawanna - để ông ấy mang theo về Peoria. Những bài học âm nhạc! Ôi anh cho rằng Nghệ thuật vẫn còn lẩn khuất trong những bài học âm nhạc đó”.

“Em vui biết chừng nào vì anh vẫn tiếp tục học vẽ được,” Delia hồ hởi nói. “Anh nhất định phải thắng, anh yêu ạ. Ba mươi ba đô-la! Trước đây, chúng ta chưa bao giờ có nhiều tiền đến thế để mà xài. Tối nay, chúng ta phải thưởng thức món sò huyết mới được”.  

“Và cả món thịt thăn nõn om nấm nữa chứ”, Joe nói. “Em này, cái dĩa lấy ô-liu của nhà mình đâu rồi, em nhỉ?”.

Vào buổi tối thứ bảy sau, Joe về tới nhà trước tiên. Anh trải rộng 18 đô-la anh kiếm được lên trên bàn phòng khách, rồi rửa sạch hai bàn tay dính đầy sơn sẫm màu.

Nửa giờ sau, Delia về tới nhà, bàn tay phải bị buộc băng lung tung thành một bọc không ra hình thù gì.

“Thế này là thế nào?” Joe thắc mắc sau câu chào hỏi như thường lệ. Delia cười, nhưng không vui lắm.

“Clementina,” Delia giải thích, “cứ khăng khăng đòi ăn món thỏ xứ Wales sau khi học đàn xong. Cô bé quả là một cô gái kỳ quặc, lạ lùng. Đòi ăn món thỏ xứ Wales vào lúc 5 giờ chiều. Ngài Đại tướng cũng có mặt tại đó. Giá anh được thấy ông ấy chạy đi lấy cái lò hầm, anh Joe ạ, cứ như thể không có người giúp việc trong nhà vậy. Em thông cảm Clementina không được khoẻ lắm; cô bé vụng về biết chừng nào. Trong lúc múc món thỏ hầm, cô ấy đã đánh đổ nước canh sôi sùng sục lên tay và cổ tay em. Đau kinh khủng, anh Joe ạ. Cô bé rất lấy làm tiếc! Còn Tướng Pinkney nữa chứ! – Anh Joe ạ, ông già gần như hóa điên. Ông chạy vội xuống dưới nhà và sai một người nào đó - họ bảo đó là một người công nhân lò sưởi hoặc một người làm gì đó đang ở dưới tầng hầm - chạy ra hiệu thuốc để mua dầu và các thứ để băng cho em. Bây giờ em không còn cảm thấy đau đến thế nữa.”

“Thế đây là cái gì?” Joe vừa hỏi vừa nhẹ nhàng cầm lấy bàn tay rồi rút mấy sợi tơ trắng dưới những lần băng gạc.

“Đó là một thứ mềm làm đệm, có tẩm dầu, “Delia nói. “Ồ, anh Joe, anh lại bán được thêm một bức nữa rồi đấy à?” Nàng đã nhìn thấy tiền để trên bàn.

“Sao cơ?” Joe nói; “cứ hỏi ông già ở Peoria thì biết. Hôm nay, ông ta đã lấy bức ga xe lửa rồi; ông ta còn không chắc lắm nhưng ông ấy nghĩ là ổng muốn có một bức phong cảnh công viên và một bức cảnh Vịnh Hudson. Mà chiều nay em bị bỏng tay lúc mấy giờ nhỉ, Dele?”.

“Vào quãng năm giờ gì đó,” Delia nói, giọng kể lể, than vãn. “Cái bàn là – à em muốn nói là lúc đó món thỏ hầm vừa mới bắc ra khỏi lò. Giá mà anh được thấy Tướng Pinkney nhỉ, anh Joe ạ, khi đó…”.

“Em hãy ngồi xuống đây một lát đã, Dele,” Joe nói. Anh dìu Delia tới chiếc sofa, ngồi xuống cạnh vợ rồi quàng tay qua vai nàng. “Anh hỏi thực em nhé, hai tuần qua em làm gì hả Dele?” anh hỏi.

Delia lặng thinh trong giây lát, cặp mắt chan chứa một tình yêu nồng nàn và một thái độ cứng cỏi, kiên cường, đoạn lẩm nhẩm đôi lời một cách mơ hồ về Tướng Pinkney; nhưng cuối cùng nàng cũng cúi đầu nói ra sự thật, nước mắt đầm đìa, lã chã tuôn rơi. 

“Thực ra em chẳng kiếm được học sinh nào cả” Delia thú thật. “Nhưng em không chịu được cảnh phải để anh bỏ học; em đã xin được một chỗ làm, chuyên là áo sơ-mi, tại hiệu giặt là to lớn ấy ở Phố 24. Em nghĩ em đã phịa chuyện về Tướng Pinkney và Clementina rất cừ, phải không, anh Joe? Và sau khi một cô gái trong xưởng vô ý chạm chiếc bàn là nóng vào tay em chiều nay, suốt trên đường về nhà, em đã phải nghĩ cách bịa câu chuyện về món xúp thỏ xứ Wales. Anh không giận em chứ, anh yêu, Joe? Và nếu như em không kiếm được việc làm thì rất có thể anh cũng chẳng bán được các bức họa của anh cho ông già Peoria ấy.”

“Ông ta chẳng phải từ Peoria tới …” Joe chậm rãi nói.

“Mà ông ta từ đâu tới cũng chẳng thành vấn đề. Anh thông minh biết chừng nào, anh Joe ạ - bây giờ thì hôn em đi nào, anh Joe – mà điều gì đã khiến anh nghi ngờ rằng em không dạy nhạc cho Clementina nào?”

“Anh chẳng nghi ngờ gì cả”, Joe nói, “cho tới tận tối hôm nay. Chiều nay, anh cũng không nghi ngờ gì, anh chỉ gửi thứ bông xơ và dầu từ phòng máy lên cho một cô gái trên gác tay bị bỏng bàn là. Hai tuần nay, anh vẫn cho chạy máy trong xưởng giặt là đó mà.”

“Thế thì anh đã không …”, Delia thốt lên.

“Cả Ông già Peoria mua tranh,” Joe nói, “lẫn Tướng Pinkney đều là những sáng tác của cùng một thứ Nghệ thuật – nhưng người ta không thể gọi loại hình nghệ thuật này là hội họa hay âm nhạc được!”

Thế rồi cả hai ôm nhau cười ngất, và Joe lại nói:

“Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là…”

Đến đây Delia đã đặt tay lên môi anh không cho anh nói tiếp. “Không”, Delia nói, “chỉ cần nói Khi người ta yêu thế thôi”.

Điền Thanh
(dịch từ nguyên bản tiếng Anh nhan đề “A Service of Love”)
(271/09-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.

  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.