Minh họa: Bửu Chỉ
ALÊCHXÂY MARINAT Hoa tặng Ka-lum-ba Trong cửa hiệu “Lu-mi-nhit-xa” tối om… Thế là đã 8 ngày rồi cô bán hàng không bật đèn. Sang ngày thứ 9 thì Phê-nhic mò tới đây và dùng cái khoan nậy ổ khóa ra. Đôi bàn tay hắn mới tài tình làm sao! Tuy nhiên, chẳng vô cớ chút nào khi nói rằng không có chìa khóa vẫn mở được những cánh cửa thánh đường. Nhưng ở mỗi chiếc chìa khóa - thậm chí nếu như cái đó không đơn thuần là chiếc chìa khóa mà là một dụng cụ thay cho chiếc chìa khóa đó - nhất định phải có một lai lịch đó chỉ trông chờ ở nhà văn - người mà sớm hay muộn cũng phải sáng tác ra và mô tả nó với cái tên gọi đầy khêu gợi trí tò mò, chẳng hạn “chiếc chìa khóa thần kỳ của Phê-nhic-ka-ra Be-xa” - truyện viết cho học sinh trường ban đêm. Phê-nhic lẽn vào cửa hiệu lúc nửa đêm về sáng, khi mà ánh trăng mờ mờ ảo ảo chiếu vào những gáy sách màu đỏ làm lóa thành màu xanh phơn phớt và ngược lại. Nhưng bỗng nhiên, điều này thường xảy ra trong tất cả những chuyến phiêu lưu mạo hiểm, có một tiếng gõ vào cửa sổ! Phê-nhic tắt phụt đèn đi và chui tọt xuống quày hàng nấp. Khi yên tĩnh trở lại, hắn lại “khai hóa” tiếp. Hắn đọc lại tất cả những dòng chữ trên gáy sách: I-on Me-gu-re “Tuyển tập thơ”, E.Tru-ku-re “Tuyển tập truyện ngắn”, An-Pê-ki-kan “Mưa và gió…” Hắn chất sách thành một đống, sau đó hắn bắt đầu chọn ra những cuốn sách hay nhất trong số sách bị thải ra. Hắn nhặt nhạnh cả những quyển sách bị hạ giá một nửa. Thế nhưng hắn lại nghe thấy tiếng gõ cửa. Phê-nhic vác mấy tập sách nặng chịch lên rồi co ba chân bốn cẳng chạy. Hắn lao vùn vụt trên phố đến nỗi tia lửa tóe ra từ đế dày của hắn làm cho xóm làng bừng sáng hẳn. Cuối cùng hắn dừng lại, tụt xuống một cái rãnh và dí sát mắt vào “Tuyển tập thơ” của I-on Me-gu-re. Đọc lướt cái nhan đề đó xong, hắn cầm đọc “Tuyển tập truyện ngắn” của E-phim-ma Tru-ku-re, rồi chuyển sang đọc “Mưa và gió” một cách qua loa đại khái. Đúng lúc Phê-nhic lật đến trang thứ 70 thì ngài thanh tra khu vực khẽ đập vào gáy hắn và lôi hắn từ rãnh lên. Sự việc đã hai năm rõ mười, đầu tiên ngài thanh tra lập biên bản, rồi sáng hôm sau ông ta chuyển tên tội phạm lên ngài dự thẩm viên của huyện.
Và thế là ngày xử án kỳ lạ đã đến. Lần đầu tiên trong lịch sử của cơ quan làm việc nghiêm túc này kẻ vi phạm luật lệ kiểu ấy ra trước vành móng ngựa. Thế mà trên bàn họ lại là một vụ án chẳng đáng để xét xử. Thật ra, hành động của Phê-nhic phức tạp lắm. Bởi lẽ chưa bao giờ và chưa từng có ở nơi đâu lại diễn ra cái trò ăn trộm sách ở cửa hiệu nằm ngay trong làng! Bây giờ cần phải bổ sung và liệt kê thêm hiện tượng kỳ lạ này vào bảng thống kê các vụ án. Dù thế nào đi nữa thì tội lấy cắp các tác phẩm nghệ thuật vẫn bị coi là vi phạm pháp luật. Nhưng để đánh lạc hướng các vị chánh án nhằm làm cho họ không thể đưa ra những hình phạt thích đáng chiếu theo các điều đã ban hành trong bộ hình luật, phạm nhân tự nhận cái tội tham đọc sách để lấp liếm tội tháo chạy của mình. Trong khi đang hành xử, người ta gọi điện tới Hội nhà văn để xin ý kiến về cách giải quyết ngần ấy tình huống rối ren. Thật là phúc đức: các cố vấn của Hội nhà văn đều có mặt ở đó. Họ đã được thoát khỏi những công việc thường lệ vĩ đại của họ. Tất cả bọn họ tụ tập lại và sau khi hội ý ngay tại chỗ, họ quyết định triệu tập ngay những tác giả có các tác phẩm bị ăn trộm lại… Các tác giả xuất hiện, trèo lên xe và lao như bay đến nơi đã chỉ dẫn để xem mặt tên phát minh ra trò ăn trộm sách. Đến nơi, công việc đầu tiên là các nhà văn đi dạo chợ và mua mỗi người một bó hoa. Cứ thế họ cầm hoa bước vào phòng xử án, chẳng khác nào như ra ga đón vị khách quí từ Mockva đến. Họ đứng trang nghiêm một phút ở lối vào - Có thể lầm tưởng rằng họ được mời đến để trao giải thưởng văn học gì đó trời mà biết được - rồi họ nín thở tiến lên phía trước và trao hoa… Các bạn đoán xem họ tặng ai nào? Không, không phải tặng cho các vị chánh án mà là tặng cho bị can Phê-nhic đấy! - Xin tặng ông bạn, Ka-lum-ba của chúng tôi! - Họ cùng thở ra một giọng. Các vị chánh án ngạc nhiên lắm: các tác giả đã chiếm lĩnh trận địa kiểu gì thế này? Nhưng, ngay tức khắc toàn thể các tác giả đã cắt nghĩa cho tòa rõ. Họ tuyên bố rằng trong sáng kiến của Phê-nhic họ nhận thấy có sự đột biến kỳ lạ của sự ham mê sách vở, rằng đó là một sự kiện có ý nghĩa xã hội trọng đại. Thật ra, những cuốn sách của họ nằm bẹp mãi nơi cửa hiệu cũng phải 5 đến 8 năm rồi và bỗng nhiên!... Dù thế nào đi nữa thì chứng cớ cũng đã rành rành: ổ khóa hiệu sách bị nậy ra, sách bị mất trộm. Và đó lại chính là những cuốn sách của I-on Me-gu-re, E.Tru-ku-re, An-Pê-ki-kan. Kẻ trộm đã moi được sách, không khó như ta thường nói, phải đốt đuốc mới mò ra. Bây giờ nhà xuất bản không có chỗ mà chui xuống nữa - Họ sẽ hết đường phản đối và sẽ phải tái bản những tác phẩm đã ấn định! Các tác giả đắc chí đưa mắt cho nhau và vô cùng mãn nguyện rút lui khỏi phòng xử án. Họ quyết đi thẳng tới nhà xuất bản và sau đó sẽ xông tới ủy ban trao tặng giải thưởng văn học! Câu hỏi cuối cùng của tòa: động cơ nào đã dẫn anh đến việc ăn trộm sách của chính các nhà văn nói trên. Bị can đáp: - Bởi vì những cuốn sách đó nặng hơn cả và có tranh ảnh. Mà “phế liệu” lại mua sách theo cân lạng và bán sách tốt thì được cấp phiếu. … Song, những tác giả tốt số không nghe được những lời đó - lúc này họ đã đâm bổ cả vào nhà xuất bản rồi. MAI LAN dịch (Từ tập truyện ngắn “Một tuần hỗn tạp”) (5/2-84) |
VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.
Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.
K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.
LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.
LGT: Irving Stone (1903-1989), nhà văn Mỹ hiện đại, nổi tiếng trong nước và trên thế giới nhờ những kịch bản phim lịch sử, những tác phẩm về tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, nhất là những cuốn “Khát vọng cuộc sống” (Lust for Life) viết năm 1934, về Vincent van Gogh, danh hoạ Hà Lan, “Tê tái và Đê mê” (The Agony and the Ecstasy) viết năm 1961, về Michelangelo, danh hoạ và nghệ sĩ điêu khắc Italy, “Thuỷ thủ trên lưng ngựa” (Sailor on Horseback) về Jack London, nhà văn Mỹ lừng danh...).
LTS: Henri Troyat (1-11-1911_4-3-2007) sinh tại Matx-cơ-va, định cư ở Pháp kể từ 1920, thuộc Viện Hàn lâm quốc gia Pháp từ 1959, một trong những cây bút viết khỏe nhất của văn học Pháp hiện đại. Chuyên viết tiểu thuyết, truyện ngắn. Ngoài ra, nghiên cứu về Đốtx-tôi-ép-xki, Tôn-xtôi, Lét-mông-tốp, Ô-la, Ban-zắc… Truyện ngắn của ông giàu nét dí dỏm, ký họa.
Atiq Rahimi sinh năm 1962 tại Afghanistan, nhưng đến sống ở Pháp vào năm 1984. Tại Pháp ông trở thành một nhà văn, nhà làm phim tài liệu và phim truyện nổi tiếng. Tiểu thuyết của ông “The Patience Stone - “Nhẫn thạch” được giải thưởng danh giá Prix Goncourt năm 2008. Phim dựa trên tiểu thuyết của ông “Earth and Ashes - Đất và Tro” được tuyển chọn chính thức tại liên hoan phim Cannes năm 2004 và được một số giải thưởng.
IVAN XÔCHIVESNgười chồng lý tưởng - đấy là tôi. Mẹ vợ, vợ tôi và đa số bạn gái của nàng đều gọi tôi như vậy.
LTS: Vaxin Bưcốp sinh năm 1924 tại làng Tsê-rê-pốp-si-na, vùng Vi-tép-xcơ, nước cộng hòa Bêlôruxia. Ông từng đứng trong hàng ngũ quân đội Xô Viết chiến đấu chống phát-xít Đức. Tác phẩm của ông bắt đầu được xuất bản từ năm 1956. Ông thuộc một trong những tác giả viết về chiến tranh nổi tiếng của Liên Xô. Những tác phẩm của ông được nhiều người biết đến là: Phát tên lửa thứ ba, cuộc hành quân núi An-pơ, những người chết không biết đến xấu hổ, những con chó sói… ông đã nhận giải thưởng quốc gia của Liên Xô, giải thưởng I-a-cúp Kô-la-xơ của nước cộng hòa.
LTS: William Somerset Maugham (1874 - 1965) là một nhà văn Anh nổi tiếng, viết nhiều, với bút pháp hiện thực sắc sảo, soi rọi những khía cạnh mâu thuẫn nghịch chiều của cuộc sống, phác hiện những nét sâu kín của bản tính con người. Lối văn của ông trong sáng, khúc chiết, ông lại có biệt tài dẫn truyện hấp dẫn, lý thú, đặc biệt phong cách của ông thường hài hước, sâu cay.Là nhà văn đa tài, ông vừa là tiểu thuyết gia có tiếng, vừa là người viết truyện ngắn bậc thầy, và cũng là một kịch tác gia thành công.
NOBUKO TAKAGI(Tiếp theo Sông Hương số 256 tháng 6 - 2010)
LTS: Tên tuổi Azit Nê-xin đã trở nên quen thuộc với chúng ta. Là tác giả của tập truyện châm biếm nổi tiếng “Những người thích đùa” đã được dịch ra tiếng Việt, ông là trưởng đoàn nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ dự hội nghị BCH Hội Nhà văn Á Phi và cuộc gặp gỡ các nhà văn Á Phi ở nước ta vào tháng 10-1982.
A-đa-mô-vích sinh ra và lớn lên cùng cha mẹ trong làng công nhân ở Gơ-lu-sa, tại Bi-ê-lô-rút-xi-a. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nhà văn mới 14 tuổi nhưng đã theo mẹ và anh tiếp tế cho du kích quân.
LGT: Bóng cây phong lan được trích từ tuyển tập truyện ngắn Nhật Bản có nhan đề chung Bên trong do Nhà xuất bản Kodansha tuyển chọn và giới thiệu, được Nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế) tổ chức dịch ra tiếng Việt và phát hành ở trong nước. Tuyển tập gồm 8 truyện ngắn của 8 nhà văn nữ với đề từ chung: Phụ nữ Nhật viết về phụ nữ Nhật. Bên trong là nhan đề, mà cũng là chủ đề của tất cả các truyện: Phía trong tâm hồn và phía trong thân thể của người phụ nữ.
EDWARD D. HOCHGần như ngay từ ngày cưới của họ cách đây 17 năm, William Willis đã căm ghét vợ mình, nhưng chưa một lần nào anh ta nghĩ đến chuyện giết người. Anh ta sẵn lòng ở ngoài suốt cả ngày, lái xe tới cơ quan mỗi sáng, quay trở về nhà mỗi tối, và đơn giản là bỏ ngoài tai cái giọng lải nhải đều đều của vợ.
LTS. S. Rajaratnam thuộc thế hệ những nhà văn cũ của Singapo. Ông có thời làm Bộ trưởng Ngoại giao của Singapo. Truyện ngắn của ông mang chất thơ và tính nhân bản cao. Sông Hương xin giới thiệu một trong những truyện ngắn hay của Rajaratnam.
DANIEL BOULANGERĐó là mùa thu ở Concile, thành Rome mang mọi vẻ Rome và ở đó người ta đã không còn kiếm được nơi cho thuê phòng nữa.
Corrado AlvaroThời gian như muốn chững lại. Hơi nóng vẫn còn hừng hực, bầu trời mờ mờ hơi nước, những con ve kêu rả riết, ở phía tây, chân trời quang hơn, vài cụm mây như bị một nét bút quệt xuống. Cơn mưa hẳn là ở mãi xa nên người ta bắt đầu hái nho.
GABRIEL GARCIA MARQUEZ (COLUMBIA) Ngài nghị sĩ Onesimo Sanchez trước cái chết của ngài có sáu tháng và mười một ngày để đi khi ngài tìm thấy người phụ nữ của đời ngài.
Paul William Gallico (1897-1976) là một nhà văn, phóng viên thể thao nổi tiếng của Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyện, phim truyền hình, có tác phẩm đã đạt giải Oscar. Cha ông người Ý, mẹ người Áo, bản thân ông đã nhiều năm sống ở châu Âu. Là người đa tài và viết khỏe, ông có hàng chục đầu sách: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim truyền hình, thể thao. Những tác phẩm nổi tiếng của Gallico là: Ngỗng tuyết, Tình yêu của bảy con búp bê, Cuộc phiên lưu Poseidon.