Hoa tặng Ka-lum-ba

15:15 21/09/2010
LTS: Nhà văn Xô-viết Alêchxây Marinat là tác giả nổi tiếng của một số tiểu thuyết và kịch. Nhưng những tác phẩm làm cho ông nổi tiếng trước hết đối với tất cả các độc giả là những truyện ngắn hài hước. Tính hài hước trong các truyện ngắn của ông rất nhẹ nhàng nhưng sắc sảo. “Hoa tặng Ka-lum-ba” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Alêchxây Marinat.

Minh họa: Bửu Chỉ

ALÊCHXÂY MARINAT


Hoa tặng Ka-lum-ba


Trong cửa hiệu “Lu-mi-nhit-xa” tối om…

Thế là đã 8 ngày rồi cô bán hàng không bật đèn. Sang ngày thứ 9 thì Phê-nhic mò tới đây và dùng cái khoan nậy ổ khóa ra. Đôi bàn tay hắn mới tài tình làm sao! Tuy nhiên, chẳng vô cớ chút nào khi nói rằng không có chìa khóa vẫn mở được những cánh cửa thánh đường. Nhưng ở mỗi chiếc chìa khóa - thậm chí nếu như cái đó không đơn thuần là chiếc chìa khóa mà là một dụng cụ thay cho chiếc chìa khóa đó - nhất định phải có một lai lịch đó chỉ trông chờ ở nhà văn - người mà sớm hay muộn cũng phải sáng tác ra và mô tả nó với cái tên gọi đầy khêu gợi trí tò mò, chẳng hạn “chiếc chìa khóa thần kỳ của Phê-nhic-ka-ra Be-xa” - truyện viết cho học sinh trường ban đêm.

Phê-nhic lẽn vào cửa hiệu lúc nửa đêm về sáng, khi mà ánh trăng mờ mờ ảo ảo chiếu vào những gáy sách màu đỏ làm lóa thành màu xanh phơn phớt và ngược lại. Nhưng bỗng nhiên, điều này thường xảy ra trong tất cả những chuyến phiêu lưu mạo hiểm, có một tiếng gõ vào cửa sổ! Phê-nhic tắt phụt đèn đi và chui tọt xuống quày hàng nấp. Khi yên tĩnh trở lại, hắn lại “khai hóa” tiếp. Hắn đọc lại tất cả những dòng chữ trên gáy sách: I-on Me-gu-re “Tuyển tập thơ”, E.Tru-ku-re “Tuyển tập truyện ngắn”, An-Pê-ki-kan “Mưa và gió…”

Hắn chất sách thành một đống, sau đó hắn bắt đầu chọn ra những cuốn sách hay nhất trong số sách bị thải ra. Hắn nhặt nhạnh cả những quyển sách bị hạ giá một nửa. Thế nhưng hắn lại nghe thấy tiếng gõ cửa. Phê-nhic vác mấy tập sách nặng chịch lên rồi co ba chân bốn cẳng chạy. Hắn lao vùn vụt trên phố đến nỗi tia lửa tóe ra từ đế dày của hắn làm cho xóm làng bừng sáng hẳn. Cuối cùng hắn dừng lại, tụt xuống một cái rãnh và dí sát mắt vào “Tuyển tập thơ” của I-on Me-gu-re. Đọc lướt cái nhan đề đó xong, hắn cầm đọc “Tuyển tập truyện ngắn” của E-phim-ma Tru-ku-re, rồi chuyển sang đọc “Mưa và gió” một cách qua loa đại khái.

Đúng lúc Phê-nhic lật đến trang thứ 70 thì ngài thanh tra khu vực khẽ đập vào gáy hắn và lôi hắn từ rãnh lên. Sự việc đã hai năm rõ mười, đầu tiên ngài thanh tra lập biên bản, rồi sáng hôm sau ông ta chuyển tên tội phạm lên ngài dự thẩm viên của huyện.


Và thế là ngày xử án kỳ lạ đã đến. Lần đầu tiên trong lịch sử của cơ quan làm việc nghiêm túc này kẻ vi phạm luật lệ kiểu ấy ra trước vành móng ngựa. Thế mà trên bàn họ lại là một vụ án chẳng đáng để xét xử. Thật ra, hành động của Phê-nhic phức tạp lắm. Bởi lẽ chưa bao giờ và chưa từng có ở nơi đâu lại diễn ra cái trò ăn trộm sách ở cửa hiệu nằm ngay trong làng! Bây giờ cần phải bổ sung và liệt kê thêm hiện tượng kỳ lạ này vào bảng thống kê các vụ án. Dù thế nào đi nữa thì tội lấy cắp các tác phẩm nghệ thuật vẫn bị coi là vi phạm pháp luật. Nhưng để đánh lạc hướng các vị chánh án nhằm làm cho họ không thể đưa ra những hình phạt thích đáng chiếu theo các điều đã ban hành trong bộ hình luật, phạm nhân tự nhận cái tội tham đọc sách để lấp liếm tội tháo chạy của mình.

Trong khi đang hành xử, người ta gọi điện tới Hội nhà văn để xin ý kiến về cách giải quyết ngần ấy tình huống rối ren. Thật là phúc đức: các cố vấn của Hội nhà văn đều có mặt ở đó. Họ đã được thoát khỏi những công việc thường lệ vĩ đại của họ. Tất cả bọn họ tụ tập lại và sau khi hội ý ngay tại chỗ, họ quyết định triệu tập ngay những tác giả có các tác phẩm bị ăn trộm lại… Các tác giả xuất hiện, trèo lên xe và lao như bay đến nơi đã chỉ dẫn để xem mặt tên phát minh ra trò ăn trộm sách.

Đến nơi, công việc đầu tiên là các nhà văn đi dạo chợ và mua mỗi người một bó hoa. Cứ thế họ cầm hoa bước vào phòng xử án, chẳng khác nào như ra ga đón vị khách quí từ Mockva đến. Họ đứng trang nghiêm một phút ở lối vào - Có thể lầm tưởng rằng họ được mời đến để trao giải thưởng văn học gì đó trời mà biết được - rồi họ nín thở tiến lên phía trước và trao hoa… Các bạn đoán xem họ tặng ai nào? Không, không phải tặng cho các vị chánh án mà là tặng cho bị can Phê-nhic đấy!

- Xin tặng ông bạn, Ka-lum-ba của chúng tôi! - Họ cùng thở ra một giọng.

Các vị chánh án ngạc nhiên lắm: các tác giả đã chiếm lĩnh trận địa kiểu gì thế này? Nhưng, ngay tức khắc toàn thể các tác giả đã cắt nghĩa cho tòa rõ.

Họ tuyên bố rằng trong sáng kiến của Phê-nhic họ nhận thấy có sự đột biến kỳ lạ của sự ham mê sách vở, rằng đó là một sự kiện có ý nghĩa xã hội trọng đại. Thật ra, những cuốn sách của họ nằm bẹp mãi nơi cửa hiệu cũng phải 5 đến 8 năm rồi và bỗng nhiên!...

Dù thế nào đi nữa thì chứng cớ cũng đã rành rành: ổ khóa hiệu sách bị nậy ra, sách bị mất trộm. Và đó lại chính là những cuốn sách của I-on Me-gu-re, E.Tru-ku-re, An-Pê-ki-kan. Kẻ trộm đã moi được sách, không khó như ta thường nói, phải đốt đuốc mới mò ra.

Bây giờ nhà xuất bản không có chỗ mà chui xuống nữa - Họ sẽ hết đường phản đối và sẽ phải tái bản những tác phẩm đã ấn định!

Các tác giả đắc chí đưa mắt cho nhau và vô cùng mãn nguyện rút lui khỏi phòng xử án. Họ quyết đi thẳng tới nhà xuất bản và sau đó sẽ xông tới ủy ban trao tặng giải thưởng văn học!

Câu hỏi cuối cùng của tòa: động cơ nào đã dẫn anh đến việc ăn trộm sách của chính các nhà văn nói trên. Bị can đáp:

- Bởi vì những cuốn sách đó nặng hơn cả và có tranh ảnh. Mà “phế liệu” lại mua sách theo cân lạng và bán sách tốt thì được cấp phiếu.

… Song, những tác giả tốt số không nghe được những lời đó - lúc này họ đã đâm bổ cả vào nhà xuất bản rồi.

MAI LAN dịch
(Từ tập truyện ngắn “Một tuần hỗn tạp”)

(5/2-84)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp. 

  • AMBROSE BIERCE   

    Năm 1861, chàng trai Barr Lassiter sống cùng cha mẹ và người chị ở gần Carthage, Tennesse.

  • Nassar Ibrahim là nhà văn, nhà báo người Palestine. Ông còn là nhà hoạt động xã hội, nguyên Tổng Biên tập báo El Hadaf tại Palestine. Truyện ngắn dưới đây được in lần đầu bằng tiếng Ả Rập trong tạp chí Masharef 28, số mùa thu 2005, được Taline Voskeritchian dịch sang tiếng Anh, in trong tạp chí Wordswithoutborders số tháng 11/2006.

  • THOMAS VINT

    L.T.S: Thomas Vint người Estonia, năm nay 49 tuổi. Hiện ông viết văn và sống ở Estonia (Liên Xô). Ngoài khả năng viết văn xuôi, ông còn thích vẽ. Ông đã từng triển lãm tranh ở Pháp vào năm 1988. Ông cũng đã tự minh họa cho tập truyện ngắn đầu tiên của mình.

  • JOSHUA BROWN (Mỹ)  

    “Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
    Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”

  • RAY BRADBURY

    Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.

  • Thomas Burke (1886 - 1945) sinh tại Clapham, ngoại ô thành phố Luân Đôn, nước Anh. Cha chết khi còn rất nhỏ, ông sống với người chú, sau được gởi vào một cô nhi viện.

  • JORGE LUIS BORGES

    Jorge Luis Borges (tên đầy đủ là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo) sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899 tại Buenos Aires, Argentina.

  • CLAUDE FARRÈRE

    Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.

  • HERMANN HESSE
    (Nhà văn Đức, Nobel văn học năm 1946)    

    Trước đây, một chàng trai trẻ có tên là Ziegler đã sống ở ngõ Brauer. Anh là một trong những người thường xuyên ngày nào cũng gặp chúng tôi ở trên đường phố và chưa bao giờ chúng tôi có thể ghi nhớ chính xác khuôn mặt của những người ấy, vì tất cả bọn họ cùng có khuôn mặt giống nhau: một khuôn mặt bình thường ở giữa đám đông.

  • Nhà văn Nenden Lilis A. sinh tại Malangbong-Garut (Tây Java) năm 1971, là giảng viên khoa Giáo dục và Văn chương tại Indonesian Education University ở Bandung.
    Truyện ngắn và thơ của bà đã in trên nhiều ấn phẩm trong nước. Bà cũng thường được mời nói chuyện tại các hội nghị văn học cả ở trong nước và nước ngoài (như Malaysia, Hà Lan và Pháp). Thơ của bà đã được dịch sang tiếng Anh, Hà Lan và Đức.
    Truyện ngắn dưới đây được John H. McGlynn dịch từ tiếng Indonesia sang tiếng Anh.

  • ALEKSANDAR HEMON

    Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy. 

  • Lời dẫn: Cách đây 475 năm, vào ngày 22 tháng 2, tại thành phố Xenvia đã qua đời một người Italia tên Amêrigô, một người đã từng giong buồm liền 7 năm trời trên những vịnh ở phía Bắc và Tây châu Nam Mỹ.

  • LTS: Issac Bashevis Singer sinh tại Ba Lan. Ông là một nhà văn lớn của Do Thái. Hầu hết truyện của ông đều viết bằng tiếng Hébreu và Yiddish, tức tiếng Do Thái cổ. Với lối văn trong sáng, giản dị, có tính cách tự sự, ông thường viết về cuộc sống của những người dân Do Thái cùng khổ. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1978.

  • LTS: Giải thưởng danh giá Goncourt của văn chương Pháp năm 2015 với tác giả là nhà văn Mathias Enard do Nxb. Actes Sud (Pháp) xuất bản.