Ảnh: Internet
Thẳng thắn mà nói, trở thành “Người chồng lý tưởng” hoàn toàn không dễ dàng gì hơn đạt được học vị Phó tiến sĩ khoa học hay danh hiệu Phó giáo sư. Chỉ khác là học vị và danh hiệu trong khoa học thường được khuyến khích bởi vật chất. Còn trong hoàn cảnh của tôi thì chỉ được sự vinh quang. Vâng. Chỉ thế thôi. Nhưng tốt nhất là tôi sẽ kể từ đầu. Ngay từ ngày đầu chung sống, khi mà các đồ trang sức cho một đám cưới không còn cần thiết nữa, chúng tôi đã nghĩ ngay đến việc xây dựng cuộc sống lứa đôi. - Đã đến lúc ăn sáng rồi anh nhỉ? - Rất nhẹ nhàng và âu yếm, Liđa nhắc tôi, trong khi nàng đang ngồi trước gương và cẩn thận sửa sang lại sắc đẹp của mình. … - Sao? Anh không biết phải làm gì à? Ha, ha… Liđa phá lên cười và vẫn không rời khỏi gương, nàng nói: - Chỉ cần lấy trứng và mỡ, và… Thôi, chắc anh biết. Anh thân yêu. Anh thì việc gì cũng làm được cơ mà. Tôi cảm thấy xấu hổ. “Đồ con lợn! - Tôi tự rủa mình - Lấy vợ nghĩa là phải lo lắng và biết chăm sóc vợ. Thế mới là chồng”. Cùng với ý nghĩ đó, tôi tiến vào bếp và chuẩn bị món trứng rán. Tôi chuẩn bị món đó không phải theo cách tầm thường mà còn trang trí thêm bằng những miếng giò, vài lát hành và cuối cùng rắc tiêu, ớt lên trên. - Ôi! Anh thật là tuyệt diệu! Liđa khen tôi, sau khi đã ăn xong món trứng - Món trứng của anh bao giờ cũng ngon cả. Tôi cảm thấy sung sướng. Sau buổi làm việc, tôi trở về nhà trong tâm trạng phấn khởi, nhưng đói mềm. Liđa đón tôi bằng cái hôn rất kêu. - Em đợi anh hết cả hơi - Nàng thốt lên - Anh hãy chuẩn bị món gì đi. Em đói muốn chết đây này. Tôi cảm thấy mủi lòng, và lại tiến vào bếp. Ngoài món xúp, khoai tây rán và thịt luộc, tôi không biết chuẩn bị gì nữa. Nhưng khi đã ngồi vào bàn. Liđa lại khen tôi. - Anh bao giờ cũng tuyệt diệu! Những món này cũng rất ngon. Buổi chiều chúng tôi lại ăn thịt luộc và khoai tây rán. Liđa lại khen tôi về món đó. Tôi cảm thấy tự hào. Được một hay hai tuần lễ, tôi không còn nhớ nữa. Nhưng một buổi sáng, khi còn nằm trên giường, Liđa nói với tôi rất nhẹ nhàng. - Lại trứng rán há anh? Em ngán đến tận cổ rồi. Ai lại suốt ngày trứng rán, khoai tây rán và thịt luộc. Tôi suýt nữa ngất. Khi trấn tỉnh lại, tôi nghĩ: “Mình thật là bậy! Ngay cả con bò cũng không phải chỉ ăn một loại thức ăn. Khi thì cỏ, khi thì rơm, thậm chí cả cháo nữa. Vậy mà mình thì chỉ biết nấu cho Liđa mỗi món trứng rán, khoai tây và thịt”. Sau một buổi suy nghĩ kỹ càng, tôi mua về một cuốn sách dạy nấu ăn dày cộp. Tôi ngấu nghiến đọc. Đọc ở bất kỳ nơi nào có thể được. Trên tàu điện, ở cơ quan, trong giờ giải lao. Thậm chí, chắc các bạn không tin, tôi lẻn dậy sớm chui vào phòng vệ sinh ngồi đọc để ánh đèn không làm thức giấc Liđa của tôi. Những gì đọc được trong sách, tôi liền áp dụng ngay. Tôi trở nên thành thạo các món ăn và thậm chí còn biết cả tỷ lệ vitamin A, B, C… trong từng loại súp, rau… sung sướng nhất là tôi làm được cả bánh ga-tô. Bây giờ chúng tôi ít khi được ăn hai người với nhau. Cha mẹ vợ là những vị khách thường xuyên của chúng tôi. Một lần, khi đang lúi húi trong bếp, tôi chợt nghe tiếng mẹ vợ nói với Liđa trong phòng khách. - Con thật là tốt số. Nhờ trời con đã kiếm được người chồng lý tưởng. Đấy con xem. Chồng con nấu ăn thật tuyệt diệu. Mẹ sẽ bảo các chị con đưa chồng tới học tập. Tôi sung sướng quá, suýt để cháy mất món gà quay kiểu Pa-ri. Sau lần đó, các bà chị của vợ tôi cùng các ông chồng tới dự bữa cơm cùng chúng tôi. Trong khi ăn, tôi say sưa giảng giải và kể lại tất cả những thủ thuật nấu ăn mà tôi đã đọc được trong sách cùng với những kinh nghiệm mà tôi đã đạt được khi làm bếp. Các bà chị vợ nghe tôi rất chăm chú, thỉnh thoảng mỉm cười và liếc sang các ông chồng, ý muốn nói: - “Đấy mới thật là người chồng lý tưởng”. Nhưng không biết tại sao mà các ông chồng chỉ lặng thinh nghe tôi nói mà không có ý kiến gì. Khi tiễn khách ra về, tôi lạnh người khi nghe chồng chị cả nói với vợ: - Đấy là thằng ngốc lý tưởng! Tôi thì chỉ cần một củ hành với một mẩu giò cũng cảm thấy ngon miệng hơn những món hắn ta vừa biểu diễn. Thật là đồ đàn ông mặc váy. Một lần khác, Liđa nói với tôi: - Em muốn mời các bạn gái của em tới ăn cơm để giới thiệu cho họ biết anh của em tuyệt diệu như thế nào. Khoảng ba mươi người anh ạ. - Anh vừa mới mượn được cuốn sách nấu ăn dùng cho các buổi lễ. Chắc trong đó sẽ có các món mà em và các bạn em thích. - Anh dốt lắm! - Liđa giận dữ ngắt lời tôi - Trong sách thì toàn những món mà ai cũng có thể làm được. Em cần những món mà… Thôi, chắc anh biết rõ hơn em. Anh của em bao giờ cũng tuyệt diệu cơ mà. Tôi đồng ý với Liđa và lập tức bắt tay vào công việc chuẩn bị. Tôi gửi thư tới các khách sạn nổi tiếng ở Taskent, Tbilisi, Rigan, Lêningrát…, thậm chí gửi cả tới các vùng cực bắc tôi hy vọng sẽ nhận được những lời chỉ bảo của các chuyên gia nấu ăn cùng với những món mà chắc là Liđa thích, chẳng hạn các món từ thịt gấu, nai, lợn rừng. Sau nhiều ngày chuẩn bị và một ngày lăn lộn trong bếp, tôi đã làm xong bữa tiệc để Liđa giới thiệu tài nấu ăn của tôi với bạn nàng. Tôi cảm thấy sung sướng khi nghe các vị khách nói với Liđa: “Cậu thật hạnh phúc. Chồng cậu quả là một người chồng lý tưởng. Bọn mình chỉ ước ao có được người chồng như vậy…” Liđa, phải cám ơn nàng thật sự vì nàng đã làm mọi việc để tôi có thể hoàn thiện hơn nữa trong kỹ thuật nấu ăn. Nàng bắc một loa truyền thanh ngay trong bếp để tôi có thể tiếp thu được những bài học nấu ăn dùng cho các bà nội trợ. Nàng còn cắt và sưu tầm vô số bài báo, mẩu tin về các món ăn mới và hiếm. Hơn nữa, cũng phải cảm ơn Liđa, vì nàng đã phải bỏ thì giờ đi dự các buổi khiêu vũ, nghe hòa nhạc, xem phim và thậm chí còn đi xem đá bóng. Rồi sau đó, khi đã nằm trên giường, nàng kể lại cho tôi những gì mà nàng đã xem được trong ngày, và giọng kể êm ái của nàng đã ru ngủ tôi sau những mệt nhọc của một ngày nội trợ. Đấy là toàn bộ những gì mà tôi muốn kể cho các bạn về việc tôi đã phấn đấu để đạt được danh hiệu “Người chồng lý tưởng”. Đạt được danh hiệu đó cũng khó phải không các bạn? TRẦN LỘC HÙNG (Phỏng dịch từ “Mọi người cùng cười” của Ivan Xôchives. NXB “Các nhà văn Xô Viết” 1970) (5/2-84) |
Dazai Osamu (1909 - 1948) tác gia kiệt xuất, đại diện cho “trường phái vô lại”, đó là một nhóm các nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy, trong nền văn học cận - hiện đại Nhật Bản. Phần lớn những tác phẩm của ông đều mang tính chất tự thuật với văn phong u mặc, diễn tả tâm trạng bế tắc trong thời kỳ hậu chiến và bi kịch cá nhân, đồng thời cũng dí dỏm, hài hước một cách cay đắng.
Han Kang được trao giải Nobel Văn học năm 2024 do có “văn xuôi đầy chất thơ mãnh liệt đối mặt với những tổn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của đời người”.
XERGÂY ĐÔVLATÔP
MURAKAMI HARUKI
SHERWOOD ANDERSON
WILLIAM SOMERSET MAUGHAM
William Somerset Maugham là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh năm 1874 tại Paris, Pháp, và là con của một cố vấn pháp luật trong tòa đại sứ Anh tại Paris.
Okamoto Kanoko (1889 - 1939) nhà thơ Tanka và là nhà nghiên cứu Phật giáo. Sinh ra trong một gia đình giàu có tại Tokyo, sau khi tốt nghiệp trường nữ sinh Atomi, bà theo học nữ tác gia Yosano Akiko và đã công bố một số bài thơ Tanka.
Nhà văn Mỹ Sarah Orne Jewett sinh năm 1849 và mất năm 1909. Bà là nhà tiểu thuyết, nhà thơ và nhà văn viết truyện ngắn (Short Story Writer). Bang Maine là không gian chính trong tác phẩm của bà. Văn chương của bà sớm đề cập đến các vấn đề sinh thái và các vấn đề xã hội khác, có tính vùng miền.
Trần Ngọc Hồ Trường dịch và giới thiệu
PHILIP CHARTER
C. J. MCCARTHY
Cormac McCarthy là nhà văn người Mỹ, ông nổi tiếng với phong cách viết bạo liệt và u ám. McCarthy chuyên viết tiểu thuyết và được giới hàn lâm đánh giá cao ở ngay tiểu thuyết đầu tiên, The Orchard Keeper (1965), nhưng ông không thành công với độc giả đại chúng.
FERNANDO SORRENTINO
Jon Fosse là kịch gia đương đại, nổi danh với tặng thưởng Nobel văn chương 2023. Số lượng truyện ngắn đã xuất bản không nhiều, Jon Fosse vẫn ghi dấu với một phong cách độc đáo. Người em gái nhỏ (Søster) xuất bản năm 2000, bản dịch Anh ngữ in trong tập Scenes from a childhood (Damion Searls dịch) năm 2018.
OGAWA MIMEI
JOSEPHIN JOHNSON
(Mỹ)
Gnark ngồi trong buồng ngủ, mắt nhìn những tấm giấy phủ tường. Một cảm giác là lạ xâm chiếm lòng anh.
SRI DAORUANG
Nhà văn Sri Daoruang tên thật là Wanna Sawasdsri, sinh năm 1943, quê quán ở Phitsanulok, Bắc Bangkok, Thái Lan. Bà là tác giả của tuyển tập Quỷ truyện Dân gian (Tales of the Demon Folk, 1984).
HENRI TROYAT
LTS. Henri Troyat tên thật là Lev Tarassov sinh năm 1911 tại Moskva. Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp. Giải thưởng văn học đầu tiên với tác phẩm "Faux jours" (1935). Ông đã xuất bản trên 20 tác phẩm tiểu thuyết và truyện ngắn. Những tác phẩm được dư luận đặc biệt chú ý như bộ ba tiểu thuyết "Tant que la terre durera" (1947), "Le sac et la cendre" (1948) và "Etrangers sur la terre" (1950) hoặc như "La lumière des Justes"... Ông còn viết cả kịch bản văn học. Truyện ngắn "Cơn choáng" (Le vertige) lấy từ tập "La Fosse Commune" xuất bản năm 1986.
Yamakawa Masao (1930 - 1965), tên thật là Yamakawa Yoshimi, ông sinh ở Tokyo, tốt nghiệp Đại học tư thục Keo (khoa Pháp văn). Yamakawa Masao từng làm biên tập cho Tạp chí văn học Mita Bungaku. Sau đó ông viết và công bố các truyện ngắn như: Cái chết mỗi ngày, Năm ấy, Công viên ven biển… với phong cách tinh tế, miêu tả sự phi lý của cái chết và tuổi trẻ thời kỳ hậu chiến. Ông qua đời năm 34 tuổi do tai nạn giao thông.
Nhà văn Ấn Độ (người Hindi), Krishna Baldev Vaid sinh năm 1927. Ông học đại học tại Punjab và Harvard; dạy học tại nhiều trường đại học ở Ấn Độ và Mỹ. Ông viết tiểu thuyết, kịch, truyện ngắn, phê bình và dịch thuật văn học. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều ngôn ngữ như Anh, Pháp, Đức, Ý, Ba Lan, Nga, Nhật và các tiếng khác ở Ấn Độ.
HÁCH XUYÊN THỨ LANG
(Nhật)
Phải dấu việc này không cho anh ấy biết. Lãng Tử nghĩ vậy và nắm chặt bao nhỏ trong tay, tần ngần rảo bước trên cầu. Đêm tối không người với dòng sông lặng lẽ trôi giữa một màn đen kịt, và rồi nó sẽ mang đi điều bí mật của ta.
DHUMKETU
Dhumketu là bút danh của Gaurishankar Govardhauram, là nhà văn Ấn Độ (1892 - 1965), thường được xem như là một trong những người khai sáng loại hình truyện ngắn. Tác phẩm của ông thường có bút pháp gây xúc động, lãng mạn hoặc miêu tả đậm nét những cảm xúc của con người.