Họ xứng đáng là anh hùng

14:54 24/03/2009
L.T.S: Họ đồng hành và đồng nghĩa với cách mạng - có thể nói vắn tắt về lực lượng Công an nhân dân như thế.Nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập ngành (19.8.1945- 19.8.2005), Sở Công An T.T Huế và Công an Thành phố Huế đã tổ chức nhiều hoạt động chào mừng đầy ý nghĩa. Trong đó có cuộc vận động viết về đề tài Công an nhân dân.Sông Hương trân trọng giới thiệu một số tác phẩm hưởng ứng cuộc vận động đó.


MAI VĂN TRÍ
             Bút ký

T
rong suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để đi đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với đại thắng mùa xuân 1975, quân và dân ta đã vượt qua biết bao gian khổ hy sinh, lập nên biết bao kỳ tích. Trong đó có chiến dịch tổng tấn công và nổi dậy xuân 1968 ở Huế. Đây là một thắng lợi mang tầm chiến lược, là một cuộc tổng diễn tập cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trong chiến dịch ấy đã có sự đóng góp không nhỏ của lực lượng biệt động thành và của các chiến sỹ Trinh sát vũ trang thành Huế.

Tìm hiểu về những chiến công của họ, tôi vinh dự được tiếp chuyện cùng đ/c Hoàng Thức Bảo, (Anh hùng LLVTND, thương binh 2/4, Trung tá CA đã nghỉ hưu) khi đó ông là một mũi trưởng TSVT trực tiếp tham gia cuộc chiến ác liệt tròn 26 ngày đêm chiếm giữ kinh thành Huế. Nhưng trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập một số hoạt động chiến đấu của các chiến sỹ TSVT Đội 66 E và đội Biệt động thành cánh tả chiến đấu ở mặt trận bắc thành phố Huế.

* BÍ MẬT, BẤT NGỜ TIẾN VÀO THÀNH HUẾ

Những ngày cuối tháng 01/1968, họ được đ/c Nguyễn Văn Hải, chỉ huy TSVT và đ/c Văn (chỉ còn nhớ tên, không còn nhớ họ), chỉ huy đội biệt động thành Huế quán triệt chỉ thị chuyển họ sang thực hiện nhiệm vụ mới “huấn luyện cấp tốc và chuẩn bị mọi mặt để vào chiến đấu dài ngày trong nội thành TP Huế”.

Sau khi được quán triệt nhiệm vụ đó, thoạt đầu họ được quy tụ về một địa điểm mới thuộc cửa rừng Hương Trà cách Hòn Vượn khoảng 1 km, cách Huế khoảng 8 km về phía tây. Sau đó họ được tập luyện lại kỹ thuật đột nhập vào đồn địch, vượt chướng ngại vật, chiến thuật hành quân, kỹ chiến thuật chiến đấu trong thành phố. Được học tập nghiệp vụ công tác dân vận, địch vận TTĐB. Huấn luyện xong thì án binh bất động, nội bất xuất ngoại bất nhập. Họ được lệnh mỗi người phải chuẩn bị 2 vòng ngụy trang, một số thuốc nổ, bộc phá, 3 cơ số đạn, lương khô 3 đến 5 ngày, bông băng cứu thương cá nhân, dây thừng leo nhà cao tầng, vượt tường rào, áo quần chiến đấu và áo quần thường dân chờ lệnh vào thành chiến đấu. Đúng trưa 30/1/1968 (tức trưa mồng một Tết), họ được lệnh tập kết về khu vực ngã ba đường mòn giao liên tại vùng rừng núi Hương Trà để nghe phát lệnh chiến đấu của Quân khu uỷ. Khi hành quân đến khu vực tập kết chờ đợi, thì họ được chứng kiến có cả ngàn người của nhiều đơn vị, nhiều lực lượng cùng tham gia chiến dịch. Sau khi được quán triệt nhiệm vụ chung, lực lượng TSVT (thuộc lực lượng ANVT TT Huế) và lực lượng biệt động được chuyển đến một địa điểm khác, do đ/c Hải (chỉ huy TSVT) và đ/c Văn (chỉ huy biệt động) trực tiếp giao nhiệm vụ cụ thể hơn “tại Trị-Thiên Huế từ đêm nay trở đi sẽ đồng loạt tấn công địch. Cùng tiến vào thành phố trong đêm nay với các đồng chí là lực lượng chủ lực của Quân Khu uỷ và các đội công tác của các lực lượng khác từ Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ lên, từ đông Hương Trà vào. Lực lượng của các đ/c tối nay gồm đội TSVT cơ động 66E do đ/c Hùng Sơn đội trưởng. Đội TSVT 66D do đ/c Anh Tuấn đội trưởng. Đội biệt động thành cánh tả do đ/c Vi đội trưởng cùng bộ phận chỉ huy trực tiếp của các đồng chí tối nay sẽ theo đoàn 6 anh hùng thuộc lực lượng bộ binh chủ lực tiến vào nội thành Huế. Sau khi vào cửa Chánh Tây phân đội 66D sẽ vào đánh chiếm khu vực Đại Nội và bốt Tây Lộc, cùng các đơn vị bạn làm chủ vùng này. Phân đội 66E TSVT cơ động và đội biệt động cánh tả sẽ tiến vào chiếm cổng Thượng Tứ và vùng từ Thương Bạc về cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba, phố Trần Hưng Đạo, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu (tức Phan Đăng Lưu ngày nay), với nhiệm vụ chiếm bốt cảnh sát Đông Ba và phần ngoài cửa Đông Ba, bắt liên lạc với sở chỉ huy và lực lượng bạn ở phía trong cửa Đông Ba. Sau khi chiếm lĩnh, có lực lượng khác đến tiếp nhận địa bàn thì các đồng chí sẽ chuyển sang nhiệm vụ tiếp theo do ban chỉ huy giao... Dù tình huống thế nào các đ/c cũng phải tiến lên, chiến thắng, cấp trên và nhân dân sẽ tiếp sức cho các đồng chí...”

Lúc 16 giờ 30 chiều 30/1/1968 (tức chiều mồng một Tết) họ được lệnh hành quân tiến ra động Hòn Vượn, đến cửa rừng thì trời xẩm tối. Đoàn quân lúc này không còn đi một hàng dọc nữa mà là đội hình chữ A, bí mật vượt qua đồng ruộng An Lưu, Trúc Lâm, An Ninh, nhằm cửa Chánh Tây tiến vào. Khi đến sông Đào (sông kẽ vạn) các đơn vị lặng lẽ thực hiện lệnh vượt sông. Ông Hoàng Thức Bảo còn nhớ rõ, chính nơi đây một số chiến sỹ ta khi qua sông bị thủng phao bơi chết đuối, nhưng vì yêu cầu của cuộc hành quân là phải đảm bảo bí mật tuyệt đối nên nhiều đồng chí đã chấp nhận hy sinh không lên tiếng kêu cứu để giữ bí mật cho đoàn quân. Tuy vậy, do số lượng quân khá lớn cùng vượt sông nên đã không tránh khỏi sự khuấy động nhất định, vì vậy một đơn vị địch ở bên kia sông đã phát hiện và nổ súng ngăn chặn.

* NHỮNG TRẬN ĐÁNH KHỐC LIỆT

Bị đụng độ với địch, cấp trên ra lệnh tiến nhanh qua sông, vừa tiến vừa đánh. Các chiến sĩ TSVT được lệnh vượt lên trước tiêu diệt địch, không để chúng chặn đường tiến của ta. Bằng chiến thuật của lực lượng Trinh sát vũ trang luồn sâu, và sự phối hợp của lực lượng đặc công, các chiến sĩ TSVT đã tiếp cận và tiêu diệt gọn toán địch đó, mở đường cho lực lượng ta ào ạt tiến vào. Song, tại đây đồng chí Vũ Trung Sơn, đội trưởng TSVT và đ/c Nguyễn Viết Sữa, xạ thủ B40 của đội bị thương nặng không tiến lên được. Anh em đành băng bó, gửi 2 đ/c vào nhà dân chăm sóc đợi quân y tuyến sau, còn họ vượt tiếp vào nội thành. Qua cửa Chánh Tây địch chống trả quyết liệt, ta phải dùng bộc phá, B40, B41 đánh úp mới mở được cửa thành và đại quân ta đã tràn vào như thác lũ. Ông Bảo vẫn còn nhớ lúc này đã 3 giờ sáng ngày 31/1/1968. Dưới trời sáng lờ mờ của ánh hoả châu, trong tiếng nổ uỳnh oàng của pháo Tết là tiếng súng đánh vào Huế của các mũi, các hướng. Theo ký, tín, ám hiệu đã quy định đội 66E tiến về các mục tiêu đã được giao. Đội 66D tiến vào khu hành chính quận Thành nội. Tại đó cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, đội phó TSVT Hồ Văn Trà và đội viên Nguyễn Dũng đã anh dũng hy sinh mới giải quyết được. Hướng cửa Chánh Tây Đội 66E TSVT và đội Biệt động cánh tả tiến xuống cửa Thượng Tứ. Tại đây địch vẫn chốt giữ cửa thành, chỉ huy đội cho gọi hàng, song địch vẫn ngoan cố chống trả quyết liệt, buộc ta phải dùng B40 và lực lượng cảm tử xông lên đánh lên úp bọn địch mới rút chạy. Đ/c Xuân Điệp và đồng chí Hoàng Thức Bảo xông thẳng vào phá khoá mở cửa thành Thượng Tứ, lúc này khoảng 3 giờ 30 sáng 31/1/1968. Sau khi mở được cửa thành đ/c Hải TSVT và đ/c Văn biệt động chuyển về phía trong cửa Đông Ba đóng sở chỉ huy, còn hai đội TSVT và đội biệt động cánh tả (thực ra lúc này chỉ còn 10 đ/c với 2B40, 8AK) tiến ra đánh chiếm cả khu vực từ Thượng Tứ về cửa Đông Ba. Tại đây họ đã tiêu diệt. Họ tiếp tục và bắt sống được một số tên cảnh sát đi tuần ở đường Phan Đăng Lưu, nhờ vậy đã khai thác thêm được nhiều thông tin mới về địch và bí mật tiếp cận được các mục tiêu để tiêu diệt, tiến đánh và chiếm được bốt cảnh sát Đông Ba, chặn đánh một xe quân sự và đánh lùi các đợt phản kích của lực lượng địch có hai xe bọc thép M48 yểm trợ trên đường Trần Hưng Đạo. Đến 9 giờ sáng thì tất cả các mục tiêu đã chiếm được. Địch huy động xe tăng, tàu chiến phản kích hòng chiếm lại các mục tiêu đã mất. Các chiến sĩ TSVT và biệt động kiên quyết chiến đấu chống trả, diệt một xe tăng M118 trên đường Trần Hưng Đạo và rượt đuổi một chiếc khác chạy sang bên kia cầu Trườâng Tiền. Thừa thắng tiến lên đánh từ hai mũi (nhà thông tin ra, quán cơm xã hội lên) đánh tan đơn vị địch bảo vệ đầu bắc cầu Trườâng Tiền và chiếm giữ đầu cầu. Địch huy động nhiều xuồng máy từ bờ Nam tràn sang bờ Bắc sông Hương nhưng đều bị họ đánh trả không lên bờ được, sau đó có hoả lực của bộ phận E6 chủ lực tăng cường bọn địch phải bỏ chạy về bờ bên kia.

Như vậy đến trưa 31/1/1968 (tức trưa mùng 2 Tết Mậu Thân), với sự tham gia của nhiều lực lượng toàn bộ khu vực phường Phú Hoà ngày nay đã được giải phóng. Tuy nhiên do chưa có đơn vị nào đến tiếp quản nên các chiến sĩ TSVT và biệt động phải chốt lại để giữ vững trận địa.

Về phía nam Huế, do không thuận lợi trong tiến quân như phía bắc Huế, nên từ Đập Đá đến cầu Trườâng Tiền địch vẫn khống chế, chúng đổ quân xuống gần khách sạn Hương Giang và đưa tàu chiến từ Thuận An lên phối hợp đánh phản kích sang bờ bắc liên tục cho đến ngày thứ 23 của chiến dịch. Chính vì vậy, nhân dân bị kẹt trong phố chết nhiều là do địch dùng đại liên bắn từ bờ nam sang, dùng pháo hạm bắn
từ Thuận An lên và dùng máy bay ném bom, thả hơi ngạt... Chúng đánh bừa bãi vào nhà dân rồi cho bộ binh, xe tăng bắn phá dữ dội. Các chỉ TSVT và Biệt động thấy vừa chiến đấu, vừa vận động nhân dân chuyển đi vào gần cửa Đông Ba (nơi ít bom đạn hơn). Những ngày chiến đấu liên miên xảy ra họ giành giật với địch từng góc phố, ngôi nhà. Riêng bốt Đông Ba hai bên thay quyền kiểm soát nhiều lần. Trên đường Trần Hưng Đạo, Huỳnh Thúc Kháng khi ta làm chủ, khi địch khống chế. Nhưng rồi, do cửa thành bị vùi lấp, sự liên lạc của các chiến sỹ TSVT và Biệt động thành nơi đây với chỉ huy ở phía trong cửa Đông Ba, cửa Thượng Tứ bị đứt, họ cứ dựa vào nhà dân để ăn, ở và tiếp tục chiến đấu. Trong những trận chiến ác liệt một mất, một còn đó, bỗng một sự kiện quan trọng mà suốt đời ông Hoàng Thức Bảo không bao giờ quên, đó là ngày 12/2/1968, tại trận địa ông cùng đồng chí Trần Xuân Điệp và 2 chiến sỹ TSVT đội 66E vinh dự được kết nạp vào Đảng, lễ kết nạp được tổ chức ngay tại chốt là nhà buôn Hoà Lợi số 11 Phan Bội Châu (tức Phan Đăng Lưu ngày nay).

Kể ra, trong suốt 26 ngày đêm của chiến dịch, cũng có những ngày địch bị thiệt hại nặng không phản kích, họ được nghỉ ngơi và chuẩn bị mọi mặt cho những cuộc chiến đấu tiếp theo và thay nhau làm công tác dân vận, tuyên truyền đặc biệt để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân và đập lại những luận điệu của địch tuyên truyền xuyên tạc về Cộng sản. Nhờ làm tốt công tác dân vận và thực hiện nghiêm quy định “một cái kim, sợi chỉ của nhân dân cũng không được lấy” chính vì vậy dần dần dân hiểu, dân tin và tiếp tế, hỗ trợ rất nhiều cho họ và lực lượng quân giải phóng vào tiếp quản Huế. Có thể nói đây là một chiến thắng thứ 2 trong chiến dịch, đó là chiến thắng địch trên mặt trận tư tưởng, làm nền tảng cho sự phát động nhân dân nổi dậy trong chiến dịch Mậu Thân 68 này và là tiền đề cực kỳ thuận lợi cho các trận đánh giải phóng Huế 26.3 trong chiến dịch Hồ Chí Minh sau này.

Nhưng cuối cùng, trước sự tập trung tổng lực của Mỹ ngụy nhằm tái chiếm Huế, trước những khó khăn nhiều mặt của ta thì Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy cục diện chiến trường chưa
thuận lợi, ta chưa đủ sức để giữ trọn vẹn Huế nên cần phải bảo toàn lực lượng. Vì vậy các hướng, các mũi khác đã được lệnh rút dần khỏi thành phố. Theo chỉ thị của Ban chỉ huy An ninh Vũ trang TT Huế, lực lượng TSVT cũng đã kịp xây dựng, cài cắm cơ sở để cùng biệt động thành ở lại tiếp tục hoạt động bí mật, rồi rút khỏi thành phố. Địch tập trung lính Mỹ và lính nam Triều Tiên với phương tiện vũ khí hiện đại phản kích chiếm lại đường Chi Lăng, ý định bịt đường rút lui của lực lượng ta ở Phú Hoà, Phú Cát. Trong điều kiện cực kỳ ác liệt đó, ngày 24/2/1968, mũi chiến đấu của ông Hoàng Thức Bảo được ban chỉ huy Gia Hội yêu cầu chuyển về tăng cường cho khu vực này. Tại đó họ tham gia đánh địch phản kích ác liệt, liên tục thêm hai ngày đêm nữa. Tối 25/2/1968 họ mở được đường máu rút qua Vĩ Dạ và chuyển về Phú Vang.

Đến đây tròn 26 ngày đêm của chiến dịch tổng tấn công -nổi dậy chiếm giữ thành phố Huế kết thúc, những chiến sỹ TSVT thuộc lực lượng ANVT TT-Huế là những người rút ra cuối cùng từ trong chảo lửa của cuộc chiến. Chính vì vậy họ đã góp phần to lớn cùng quân dân Thừa Thiên Huế đón nhận tám chữ vàng “Tấn công, Nổi dậy, Anh dũng, Kiên cường” mà Đảng và Bác Hồ phong tặng. Góp phần tô thắm truyền thống anh hùng, vẻ vang của lực lượng CAND.                          

M.V.T
(198/08-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN KHẮC PHÊ
                 Phóng sự

    Hẳn sẽ có người bảo: Thiếu gì người thành công trong nghiên cứu khoa học mà anh lại đi viết về người bỏ cuộc. Vậy mà người bỏ dở công trình khoa học này lại có điều đáng nói. Như vậy cũng coi như là một sự lạ!

  • NGUYỄN VIỆT - ĐỨC SƠN
                        Phóng sự

    Ngày nay, nhân loại đã rõ, cùng với sự phát triển ngày càng nhanh, mạnh của dân số và công nghệ thì sự tận dụng, khai thác những tiềm năng của thiên nhiên ngày càng bị lạm dụng đến mức phải báo động.

  • LỮ MAI - TRẦN THÀNH       
                      Ghi chép   

    Đến với Trường Sa mùa biển động, hải trình nào có đảo An Bang thì gần như tất cả những con người trên mỗi chuyến tàu đều nóng lòng sốt ruột, đứng ngồi không yên chừng nào xuồng còn chưa cập đảo.

  • Phóng sự vui của Trật Sên (tức Hàn Mặc Tử)

    L.G.T: Chúng tôi xin giới thiệu sau đây bài Quan Nghị Gật - một bài văn xuôi trào phúng của Hàn Mặc Tử, viết cách đây hơn nửa thế kỷ, và ký bằng một bút hiệu mà các bạn quen của Tử khó ngờ: Trật Sên.

  • HỮU THU - BẢO HÂN                                 Ký I. Nhờ thực hiện bộ phim: SERAPHIN- SỰ HÓA THÂN CỦA RÁC chúng tôi may mắn được đi nhiều nơi và quen biết nhiều người; trong số đó có Nguyễn Gia Long và Trần Đình Quyền - một ở Hà Nội và một ở TP. Hồ Chí Minh.

  • (Kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên Hiệp VHNT Thừa Thiên Huế)Nhà văn TÔ NHUẬN VỸ

  • NGUYỄN QUANG HÀ    (Kỷ niệm 35 năm giải phóng Thừa Thiên Huế)Có thể nói chiến thắng Buôn Ma Thuột là một đòn đánh trúng chỗ hiểm. Cả chiến trường miền Nam rung rinh.

  • MAI NGÂN HÀĐó là lời nhận xét của giáo sư Hồ Ngọc Đại khi đến xem các bức thư pháp, tại phòng trưng bày nhân Tuần Văn hóa Huế. Các nhà thư pháp Huế là sư Minh Đức chùa Huyền Không, sư Phước thành chùa Châu Lâm, nhà thơ Nguyệt Đình cùng một số nhà thư pháp ở Huế đã đem giới thiệu 120 bức gồm thư pháp chữ nho, chữ quốc ngữ, chữ Anh, Pháp, Đức...

  • TRẦN NGUYÊN VẤNKhó có thể ghi lại những tình cảm của nhân dân Hà Nội giành cho Tuần Văn hóa Huế tại Hà Nội trong những ngày qua. Các cơ quan thông tin đại chúng đã giành nhiều bài vở, hình ảnh, tin tức hoạt động của Tuần Văn hóa Huế. Từ các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành đến các bậc lão thành cách mạng, những thầy cô giáo học sinh cũ của trường Quốc Học Huế, những người yêu Huế đã mang đến cho các chương trình của Tuần Văn hóa một sức sống mới. Đại sứ quán Thụy Sĩ, văn phòng khu vực của cơ quan Pháp Ngữ, đại sứ quán Bỉ, phái đoàn Liên minh châu Âu, Đại sứ quán Pháp, Đại sứ Hàn Quốc, Viện văn hóa Pháp, Quỹ Văn hóa Việt Nam Thụy Điển... đã nhiệt tình ủng hộ Tuần Văn hóa Huế tại Hà Nội.

  • PHẠM THỊ THÀNHNgười ta thường nói "Quê cha đất tổ" là quê hương ruột thịt của mình, vậy mà đối với tôi, quê ngoại "Huế" sao lại gần gũi thân thương đến vậy. Có lẽ vì vậy mà khi Ban liên lạc đồng hương Huế  ra Hà Nội ngỏ ý mời tôi tham gia vào ban tổ chức "Tuần văn hóa Huế tại Hà Nội 8-12/4/1999" tôi sung sướng nhận lời ngay. Tôi nghĩ rằng : đây là dịp mình được phụng sự quê hương bên ngoại mà tôi hằng ấp ủ, yêu mến.

  • VÕ MẠNH LẬPTuần Văn hóa Huế tại Hà Nội kéo dài từ 8 đến 12 tháng 4 năm 1999. Cầm tờ chương trình chi tiết của Ban tổ chức ai cũng có cảm giác ngợp, lộ vẻ lo lắng: tiền bạc đâu để lo toan cho đủ, liệu có ôm xuể một dự án đồ sộ như thế không và thành công ra sao đây?

  • VÕ MẠNH LẬPSáng mồng hai tháng mười một khi nước đang dâng cao dần, các bác sỹ, nhân viên của ca trực ngày hôm trước chỉ thấy thoáng qua có một người nước ngoài xuất hiện ở khoa mình, trên tay cầm tờ giấy giới thiệu của PTS, Phó giám đốc bệnh viện Bùi Đức Phú với vẻ mặt chờ đợi, băn khoăn. Bác sỹ Nguyễn Vũ Đức Huy, Bác sỹ Tân Phương, giao đãi vài câu qua loa bằng tiếng Pháp, chưa kịp xem kỹ tờ giấy giới thiệu thì nước đã dâng nhanh ngập tràn lên cái nền nhà cao nhất của khoa.

  • HỒ THỊ THANH HÒAĐúng 12 giờ ngày 2/11/1999 khi nước lũ ào ào, trào xoáy gần ngập mái một số nhà ở tổ 9 phường Kim Long thì chúng tôi 2 gia đình trong khu Tình nghĩa Kim Long kêu gọi cấp cứu. Rất may có một chiếc đò do 2 thanh niên chèo qua, nghe tiếng kêu họ ghé vào tận nhà chở chúng tôi đến chỗ cao ráo để trú ẩn. Trong đó gồm 8 người (2 người chèo, 6 người đi nhờ, có 2 em bé một em 5 tuổi một 7 tháng)

  • TRẦN NHƠNVào ngày thứ hai của cơn lũ lụt (2-11-1999) vợ chồng bác Lê Như Ngạn sau khi dọn bốc xếp hàng của mình ở kiốt ở chợ Đông Ba xong, hai bác thuê thuyền về nhà mình ở tại 81/39 đường Phan Đình Phùng.

  • AN CHÍNHPhường Phú Hậu là một phường nghèo, dân tứ chiếng, địa thế thấp, vậy mà không có người chết trong lũ lụt vừa qua.

  • SĨ THIỆNGiặc lụt chẳng chừa một ngành nào, địa phương nào của tỉnh. Cơn lũ lớn nhất trong TK 20 này tàn phá nặng nề mạng lưới TTLL hiện đại của Bưu điện TT Huế.

  • *HỘI ÂM NHẠC THỪA THIÊN HUẾQua một nhiệm kỳ, Hội Âm nhạc không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động về mọi mặt. Bên cạnh việc xây dựng và tổ chức các chương trình hoạt động làm phong phú đời sống âm nhạc trên địa bàn tỉnh, mở rộng quan hệ hợp tác với các Hội Âm nhạc các tỉnh và thành phố bạn, Hội còn quan tâm đến việc củng cố và phát triển hội viên, duy trì sinh hoạt thường xuyên, tổ chức nhiều chương trình biểu diễn và giới thiệu tác phẩm mới của hội viên, chương trình âm nhạc tưởng nhớ các nhạc sĩ đã qua đời như Trần Hoàn, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Văn Thương..., các chương trình giao lưu âm nhạc...

  • NGUYỄN VIỆT              Ghi chépNhận được điện thoại của nhà báo Dương Hùng Phong, phóng viên Ban văn nghệ Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội (PTTH-HN), rủ tôi đi Tây Nguyên (TN) theo một chuyến công tác của chuyên mục "Vì an ninh tổ quốc" (VANTQ) thuộc Đài truyền hình Việt Nam (VTV) mà anh là cộng tác viên. Lời rủ rê thật hấp dẫn, tôi nhận lời ngay, bởi tôi đã từng bôn ba gần khắp trong Nam ngoài Bắc, ấy vậy mà chưa một lần được dạo qua TN, mảnh đất chất chứa bao huyền thoại mà tôi vẫn mong có ngày được đặt chân đến.

  • PHAN TỬ LONGTiếng ve kêu rộn rã trên những hàng cây báo hiệu một mùa hè mới, mùa hè đầy hy vọng của học sinh, sinh viên. Anh Phạm Phiên cũng thế, anh rất vui mừng phấn khởi, vì mình sẽ được nghỉ hè như những sinh viên khác.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong một bài phê bình tuyển tập truyện ngắn của nhà văn Mường Mán, khi nhắc đến đề tài chiến tranh, tôi có viết: “Và ngẫm cho cùng, quả bom hay viên đạn nổ bùng trong giây lát, nhưng hậu quả của nó, nỗi đau nó gây ra thì đeo đẳng con người ta suốt cả cuộc đời.” Không hoàn toàn như thế, nhưng dư âm của “Hội nghị toàn quốc những người viết văn trẻ lần thứ 7” (HNVT) vừa tổ chức tại phố cổ Hội An cũng có nhiều điều rất đáng suy ngẫm.