Ảnh: Internet
Cửa Tùng! Tôi đi trên đất đỏ Những hàng phi lao xanh Tiếng biển vỗ về và gió Ngõ Cửa Tùng bình yên nghìn năm rồi Con còng biển chạy qua Như tuổi thơ băng qua tấm lòng mẹ Tôi như đứa bé đuổi theo con còng nhỏ Miệng reo hò Chợt sững sờ Một cây dừa sát kề mép nước Vết sẹo bom găm ăn suốt thân mình Vẫn nhoài ra biển Xòe bàn tay xanh vẫy cánh buồn xa Tôi từ đứa trẻ con bỗng hóa người già Trước cây dừa bị chém Không thể còn vô tư… Tiếng sóng vẫn nhắc kia Lời nhắc nhở đều đều từng nhịp Như tiếng vọng tâm hồn người đã khuất Bao hài cốt còn nằm dưới đất Chết nguyên hình trong địa đạo Vĩnh Quang. *** Bến Hải ơi! Tôi đã đến nơi đây Sông Hiền Lương chảy qua tôi ba mươi năm chia cắt Con sông xanh mềm mát Mà nóng nhất thế gian Đớn đau như vết bỏng Trên đất mình - Việt Nam Nhưng bây giờ Ôi bao nhiêu là gió Bên kia Cát Sơn Con thuyền qua sông chở người đi chợ Trên bến cát ngày xưa Con chẳng dám nhận mặt cha Vợ chẳng dám nhận mặt chồng Bây giờ con thuyền qua sông Lòng tôi mất cánh buồm buổi sớm Sao rưng rưng giọt nước mắt muốn ứa trào *** Lá trầu không xanh vô tư nhường kia Ai hiểu được mẹ một đời mất mát Chín đứa con tám đứa đã hy sinh Người lái xe tăng, người tháo gỡ bom mìn Người trực chiến máy bay, người tiếp nước ngọt cho đảo xa Cồn Cỏ Mẹ đứng đó Khuôn mặt nắng mưa, thăng trầm dầu dãi Sao thảnh thơi, nhân hậu quá chừng Bao đứa cháu trai lớn lên từ địa đạo Giờ đi biển “ăn sóng nuốt gió” Ngực phơi căng như lá buồm nâu *** Bông cỏ mặt trời vàng tươi lăn trên cát Đánh thức thời thiếu nữ Chú còng nâu lấp ló trốn tìm nhau Gọi về tuổi thơ Và cát trắng Dâng lên nỗi nhớ Ánh trăng dịu dàng… Đêm nay đêm cuối với Cửa Tùng Tôi càng hiểu hơn cội nguồn đất nước Tình yêu tôi xót xa, mặn mòi, sâu bền như biển Tình yêu không bình yên mà sóng vỗ liên hồi Tôi như đi trong huyền thoại Cửa Tùng ơi! Biển Cửa Tùng, 15-6-1985 (14/8-85) |
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi