Edwidge Danticat ra đời tại thành phố Port-au-Prince, Haiti năm 1969. Đậu Cử nhân Văn Học Pháp tại Barnard College, và Thạc sĩ Nghệ Thuật tại Brown University, cô hiện đang giảng dạy tại New York University (NYU).
Những truyện ngắn của cô đã xuất hiện trên 25 tạp chí văn chương và góp mặt trong một số tuyển tập. Ngoài một số tác phẩm cô biên tập hoặc viết chung với người khác, cô đã xuất bản một tập truyện ngắn và năm cuốn tiểu thuyết. Danticat từng nhận nhiều giải thưởng văn học danh giá, và tác phẩm của cô được dịch sang tiếng Đại Hàn, Ý, Đức, Pháp, Tây Ban Nha và Thụy Điển.
EDWIDGE DANTICAT
Đàn bà đêm
Tôi co mình lại vì hơi nóng của đêm trên mặt. Tôi cảm thấy trần trụi như rách toạc da thịt. Đêm nay tôi già hơn nhiều so với hai mươi lăm năm tôi đã sống. Đêm là thời gian mà tôi kinh hãi nhất trong đời. Tuy nhiên nếu tôi muốn sống, tôi phải tùy thuộc vào nó.
Những bóng người chập chờn trên tấm màn ren khi con tôi trèo vào giường. Tôi nhìn nó duỗi mình lớn dậy từ một thằng bé thành một gã đàn ông dong dỏng, chiều cao của cơ thể nó vươn lên ngăn căn nhà một gian thành hai khoảng không gian, hai tấm chiếu, hai thế giới riêng biệt.
Trong khoảnh khắc, tôi suýt lầm tưởng nó với hồn ma của bố nó, một người tình cũ mất dạng từ lâu cùng với những chiếc bóng trong đêm. Giường của nó nằm nơi góc phòng, cách xa tấm sáo rèm mỏng mảnh. Tôi nhìn nó vùi đầu vào gối tạo ra những nếp nhăn. Nó xoay trở thân thể nhỏ nhắn của mình thật cẩn thận để khỏi làm nhàu bộ đồ vía mặc vào Chủ Nhật. Nó quấn chiếc khăn quàng dài đỏ thắm của tôi quanh cổ, chiếc khăn quàng mà tôi làm duyên để quyến rũ khách. Tôi cho nó khoác vào ban tối, để lúc nào nó cũng có một vật gì đó của mẹ khi tôi không ở cạnh.
Tôi nhìn bóng nó đứng im trên màn rèm. Mắt tôi bị hút vào nó, như những vì sao soi xuyên qua những lỗ thủng nhỏ trên mái nhà, những lỗ thủng mà không một vị khách nào sửa giúp, vì họ muốn nhìn mảng trời đêm khi nằm trần truồng trên chiếu.
Một con đom đóm bay quanh phòng, lượn đến với thằng bé mà không đến với tôi. Có lẽ nó là một con muỗi đã học được phép hóa lửa mầu nhiệm. Thằng bé luôn đập chết những con muỗi đậu trên mặt mà không hề tỉnh giấc. Sáng dậy, trên trán nó dính những vết máu nhỏ tí, như thể suốt đêm qua nó đã mải miết hôn một người đàn bà có những vết thương lở loét khắp mặt.
Trong giấc ngủ, nó lăn trở và ú ớ như thể nó đã tìm được niềm khoái lạc trong việc rờ rẫm chính mình. Hai mẹ con chưa hề nói chuyện về tình yêu. Nó cần phải biết những gì đây? Tình yêu là một trong những bài học mà khi lớn lên bạn sẽ biết, như cách bạn biết chiếc giầy nào vừa với bàn chân để khỏi bị khó chịu.
Có hai loại đàn bà: đàn bà ngày và đàn bà đêm. Tôi thì bị kẹt giữa ngày và đêm, kẹt trong một màu đồng vàng hổ phách. Mắt tôi màu đất, gần như màu vàng đồng nếu tôi đứng trong nắng. Tôi muốn bới mái tóc mình thành những lọn xoăn ngay từ khi tôi vừa học được cách bới cả đầu tóc mà không làm cho đôi tay mình tê cứng.
Hầu hết mọi đêm, tôi nghe một lời thầm thì nho nhỏ. Thân tôi tê dại khi tôi tự hỏi sẽ mất bao lâu để thằng bé vượt qua tấm màn và tìm thấy tôi.
Nó gọi, “Mẹ…”.
Thì tôi nói, “Cưng yêu”.
Chẳng hiểu sao vào ban đêm, nó luôn thì thầm gọi tôi. Tôi nghe tiếng o o từ cái máy ra-đi-ô của nó. Âm thanh giòn như tiếng của một lon Coca. Một trong những gã theo đuổi tôi đã cho nó để nhét vào tai lúc đi ngủ trong khi má làm việc.
Ở Ville Rose có một nơi những hồn ma đàn bà cưỡi những con sóng trong khi chải những vì sao rời khỏi tóc họ. Nơi đó, những hồn ma tán tỉnh người đi dạo và để lại những vì sao trên lối đi. Có nhiều đêm, tôi tin rằng những hồn ma đó đang hiện hữu cùng tôi. Tôi cũng biết có những người đàn bà thức trắng đêm để gỡ những mảnh vá mà họ đã khâu được trong ngày. Những người đàn bà này cố ý phá bỏ thành quả cực nhọc của chính họ để luôn có việc để làm. Và khi có việc để làm thì họ sẽ không phải nằm bên linh hồn bất động của người đàn ông còn nồng mùi chăn chiếu với một người đàn bà khác.
Cách thằng bé phản ứng với những cái hôn lên má báo cho tôi biết rằng nó đã ngủ chưa. Nó như con bướm rập rờn bay trên hòn đá trơ trụi nằm giữa dòng suối. Đôi khi tôi thấy trong ánh mắt nó niềm mong đợi cho một điều gì còn to lớn hơn cả chính tôi. Hai mẹ con như hai người tình xa cách, nói dối nhau, dưới những vầng trăng khác nhau.
![]() |
Tranh minh họa: Lê Minh Phong |
Khi ngón tay út tôi mơn trớn đường nhân trung dưới mũi nó, thỉnh thoảng lưỡi nó lè ra liếm móng tay tôi. Nó rên lên rồi quay đi chỗ khác, có lẽ nó nghĩ điều đó là một phần của giấc mộng.
Tôi thì thầm kể những câu chuyện về núi của tôi, những mẩu chuyện về những hồn ma đàn bà và những vì sao được cài trên tóc họ. Tôi kể cho nó nghe về những con rắn độc nằm ở một đầu của cầu vồng và chiếc mũ đựng đầy vàng nằm ở đầu kia. Tôi kể rằng nếu tôi vượt qua được dòng suối đầy nhánh dâm bụt trong suốt, tôi sẽ trở thành một nữ thần. Tôi hà hơi nhẹ vào hàng mi dài của nó để xem nó đã ngủ say chưa. Những ngón tay tôi uốn thành những hình chim đậu trên mũi nó. Tôi muốn nó quên đi việc chúng tôi đang sống trong một nơi không có điều gì là vĩnh cửu.
Tôi biết đôi khi nó cũng thắc mắc sao tôi lại quá bận tâm như vậy. Sao tôi lại vẽ những mảnh trăng khuyết lên trán lấm tấm mồ hôi và rắc những bột phấn hồng lên hai gò má. Tôi mặc cho nó bộ đồ đẹp được gấp nếp cho ngày Chủ Nhật, và bảo rằng mình đang chờ đợi một thiên thần dịu dàng, và thiên thần giáng trần nơi nào thì gia chủ nơi đó phải đẹp như những hoa dâm bụt nổi trên dòng suối vậy.
Trong khi ngủ, tay nó kéo tung những nếp gấp. Nó liếm môi vì viên kẹo đường cuối cùng mà nó đã chôm được trong ví của tôi.
Thôi nào, đủ rồi nhé, nếu không răng của con sẽ trở nên đen xỉn mất. Tôi đã quên bảo nó dùng lá bạc hà để chà răng. Nó không biết rằng một ngày nào đó một người đàn bà như mẹ sẽ đánh giá nó bởi độ trắng của hàm răng.
Chẳng mấy chốc nó ngáy nhè nhẹ. Tôi lắng nghe giọng cười bẽn lẽn từ những giấc mơ đẹp nhất của nó. Giấc mơ về những thiên thần phóng qua đầu nó, thỉnh thoảng nhón những gót chân hồng trên mũi nó.
Tôi nghe nó hát thầm ậm ừ một bài hát. Một trong những khúc ca mà họ dạy trẻ con vào những buổi trưa nóng bức trong trường học. Kompè Jako, domé vou? Kìa con bướm vàng, kìa con bướm vàng. Xòe đôi cánh…
Hàng râm bụt lao xao trong đêm, ngoài kia. Tôi hát theo để ru nó ngủ. Tôi đánh thêm một lớp phấn đỏ Ai Cập lên má. Trong phấn có lấp lánh hạt kim tuyến để khách dễ dàng nhận ra tôi trong bóng tối.
Tối nay Emmanuel sẽ đến. Ông ta là bác sĩ, ông thích đàn bà mông to, mông tôi tuy nhỏ nhưng vẫn hấp dẫn. Ông đến vào những ngày thứ Ba và thứ Bảy. Ông mang hoa đến, như thể để tán tỉnh tôi. Tối nay ông ta tặng tôi những cánh hoa giấy. Hoa luôn luôn là một điều ngạc nhiên thú vị.
Tôi hỏi, “Vợ anh thế nào?”
“Bà ấy không đẹp như em.”
Những ngày thứ Hai và thứ Năm là phiên của một tay chơi đàn ắc-coóc- đi-ông tên Alexandre. Hắn thích giả tiếng của cây đàn ắc-coóc-đi-ông bằng miệng vào tai tôi. Suốt thời gian còn lại trong đêm, hắn lắc lư cạ cái đầu trái gấc lên rốn tôi.
Nếu thằng bé thức giấc, tôi đã chuẩn bị sẵn những lời ngụy biện. Rồi một ngày nào đó, nó sẽ đủ lớn để không bị mẹ xí gạt rằng người đàn ông lang bạt này là một ảo ảnh, và thân thể trần truồng ấy chỉ là một giấc mơ. Tôi sẽ nói với nó rằng bố nó đã đến, rằng một thiên thần đã mang ông về từ thiên đường trong chốc lát.
Những ngôi sao chậm rãi trượt khỏi lỗ thủng trên mái nhà trong lúc ông bác sĩ chìm sâu, sâu mãi dưới thân tôi. Ông ta nhịp mạnh và hổn hển thở. Tôi bịt miệng ông lại để ông khỏi gào lên. Tôi thấy gương mặt vợ ông trong những giọt mồ hôi chảy ròng xuống cằm ông. Ông ra về, cả người đẫm sương tiết ra từ da thịt chúng tôi. Ông gọi tôi là trận tuyết lở, là thác nước...
Sau khi ông về lúc rạng sáng, tôi ra ngoài ngồi hút một điếu thuốc lá vấn. Tôi nhìn những người đàn bà làm công đi bộ thành hàng đến khu chợ trời cách nơi họ ở gần nửa ngày đường. Tôi cám ơn những vì sao, vì ít gì đi nữa thì tôi cũng hưởng được những ban ngày cho riêng mình.
Khi trở vào nhà, tôi nghe tiếng thở đều đều của thằng bé. Tôi vội áp mặt vào môi nó để cảm nhận hơi ấm bình yên thoát ra từ miệng nó.
“Mẹ ơi, con lại hụt mất những thiên thần nữa rồi…”. Nó thì thầm âu yếm, với tay ôm lấy cổ tôi.
Tôi trườn vào giường, nằm xuống bên nó, và ru nó ngủ lại.
“Đừng lo, con yêu. Các thiên thần có cả cuộc đời để đến với chúng ta mà.”
Thận Nhiên dịch
(SH310/12-14)
L.T.S: LANGSTON HUGHES (1902 - 1967), nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch và dịch giả người Mỹ da đen, sinh ở Joplin, bang Missouri. Ông đã xuất bản 35 tác phẩm. Thơ của ông đã được dịch sang tiếng Việt. Những tác phẩm của ông phần lớn tập trung chủ đề đấu tranh cho quyền bình đẳng giữa người da đen và da trắng tại nước Mỹ. Truyện sau đây dịch trong tập truyện "The ways of white Folks".
Hình ảnh rồng Việt Nam từ xa xưa đã sớm đi vào nghệ thuật với nhiều loại hình khác nhau. Trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc, nhiều công trình điêu khắc lấy con rồng làm đề tài đã trở thành những tác phẩm có giá trị văn hóa, trong đó không ít công trình điêu khắc đá được xem như là những tác phẩm mang dấu ấn phong cách nghệ thuật của một thời kỳ.
Nhà văn Phillip Van Doren Stern sinh ra tại Wyalusing, bang Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. The Greatest Gift là truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông. Phillip Van Doren Stern đã từng gửi câu truyện này đi nhiều báo và tạp chí nhưng không nơi nào nhận đăng. Cuối cùng ông cho in truyện lên 200 tấm thiệp năm mới và phát cho bạn bè.
LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.
LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.
L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.
Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.
William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.
LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.
LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.
Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.
LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...
L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.
L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.
LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.
LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.
PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.
An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.
VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.